Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng
Đăng Nhập Đăng ký Trợ giúp Thành viên Tìm kiếm Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng

Du hành 20/8/2014

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng » Trang Hình Ảnh Của Bạn
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Tác giả Thông điệp
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Ba 8 26, 2014 10:49 am    Tiêu đề: Du hành 20/8/2014 Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Du lịch Bà Nà
Khu du lịch Bà Nà - Núi Chúa thuộc địa phận huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nẵng, cách trung tâm thành phố khoảng 30km về phía tây. Nằm ở độ cao 1.487m so với mặt biển, khí hậu quanh năm mát mẻ, nhiệt độ trung bình vào mùa hè khoảng 18ºC, Bà Nà - Núi Chúa là khu du lịch sinh thái - nghỉ dưỡng lý tưởng ở miền Trung. Đến đây bạn sẽ được chiêm ngưỡng cáp treo đạt 4 kỷ lục thế giới và tận hưởng cảm giác bồng bềnh trên mây khói khi đi trên Cáp treo.

Khi đi cáp treo, khách du lịch sẽ có dịp khám phá toàn cảnh Bà Nà từ trên cao và ngắm hình ảnh trên các cabin, mỗi hình ảnh mang một đặc điểm riêng của Bà Nà. Đến với Bà Nà, khách du lịch sẽ cảm nhận được cảm giác như đi lạc trong mây. Nhưng vào những ngày trời quang mây tạnh, du khách có thể thu gọn trong tầm mắt cả một vùng không gian rộng lớn như thành phố Đà Nẵng, vịnh Đà Nẵng (nhân dân địa phương vẫn quen gọi là Vũng Thùng) với đường viền hình vòng cung từ chân đèo Hải Vân đến bán đảo Sơn Trà, bãi biển Mỹ Khê, non nước Ngũ Hành Sơn, sông Thu Bồn uốn quanh những cánh đồng trù phú, Cù Lao Chàm giữa nhấp nhô sóng biếc... Thiên nhiên như một bức tranh thủy mặc kỳ thú.
Năm 2004, một bản sao của chùa Linh Ứng ở Ngũ Hành Sơn được xây dựng ở đây. Trên núi cao, chùa Linh Ứng linh thiêng với những nét kiến trúc tinh tế làm cho không khí thiền môn thêm thanh tịnh, lòng người vãn cảnh chùa thêm thanh tao. Cảm giác mệt mỏi dường như tan biến khi du khách được chiêm ngưỡng tượng Phật Thích Ca thuộc vào hàng lớn nhất châu Á. Tượng Phật cao 27m uy nghi giữa bốn bề lồng lộng mây trời, gió núi. Bên cạnh chùa Linh Ứng là những hầm rượu của người Pháp vẫn còn đó nay được sử dụng để chưng cất rượu và luôn mở cửa cho du khách vào tham quan, nhấm nháp một chút men cay.

Đến Bà Nà, bạn còn có cơ hội chiêm ngưỡng hệ thống cáp treo Bà Nà với 4 kỷ lục thế giới, nhưng nếu bạn tìm hiểu kỹ về quá trình xây dựng hệ thống cáp treo này thì nhiều người phải thán phục và phong thêm cho họ 2 lỷ lục nữa: đó là không cần sử dụng đến trực thăng và hệ cần cầu chuyên dụng ; cũng không phá rừng để đưa thiết bị, công cụ thi công, vật tư, vật liệu và những đồ dùng cần thiết khác. Thật đáng khâm phục cho những người thợ sáng tạo Việt Nam.












Trứng Đà Điểu ... bự quá ! Được bày bán dưới chân núi Bà Nà ...




Bà Nà về đêm ...






























Ngày nay sỏi đá vẫn cần có nhau ...










_________________


Được sửa bởi Toc Trang ngày Bảy 8 30, 2014 9:17 am; sửa lần 8.
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Tư 8 27, 2014 2:28 am    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này














Khám phá hầm rượu bí ẩn trên đỉnh Bà Nà

- Từ những năm 1923, người Pháp đã cho xây dựng hầm rượu Debay trên đỉnh Bà Nà (TP. Đà Nẵng) làm nơi cất giữ các loại rượu vang được mang từ Pháp sang để phục vụ các quan chức, sĩ quan quân đội và các thương gia người Pháp. Đây là công trình rất độc đáo bởi nó thường chỉ được xây dựng ở châu Âu và đặc biệt là nó được đào xuyên vào lòng núi.
Hầm rượu có tổng chiều dài từ lối vào đến lối ra khoảng 80m (nay được xây dựng thêm khoảng 20m, thông qua bar Deday bên cạnh), chiều cao 2,5m, rộng khoảng 2m, bên trong có các hầm cất giữ rượu, hầm chưng cất rượu, bar rượu, lò sưởi, sảnh…
Trần hầm được đào theo hình vòm cung thể hiện lối kiến trúc mang đậm chất Pháp.
Vách hầm rượu này được xây bằng đá núi và vữa làm từ hỗn hợp đường và nhựa cây bời lời, một loại cây khá phổ biến ở vùng Quảng Nam - Đà Nẵng xưa.
Đó là lý do vì sao gần một thế kỷ qua, hàng trăm ngôi biệt thự lộng lẫy nguy nga một thời nay chỉ còn những phế tích nhưng hầm rượu vẫn trường tồn với thời gian
Cùng với những gì thiên nhiên ban tặng cho Bà Nà. Hầm rượu Debay nằm sâu trong lòng núi, nên nhiệt độ trong hầm rượu thường khoảng 16 độ đến 20 độ C, là nhiệt độ lý tưởng cho việc cất giữ các loại rượu vang.
Trong hầm rượu Debay có 14 hốc, gồm 11 hốc nhỏ và 3 hốc lớn. Thời Pháp thuộc, mỗi hốc rượu này đều có chủ nhân của nó đăng ký gửi rượu cất giữ trong hầm. Họ là những chủ nhân của những ngôi biệt thự hoặc khách sạn tại Bà Nà.
Vượt qua sự khắc nghiệt của thiên nhiên và sự tàn phá của bom đạn trong chiến tranh, hầm rượu Debay là công trình duy nhất của người Pháp còn lại khá nguyên vẹn tại Bà Nà.










Không gian mô phỏng lại cảnh sinh họat của các ông chủ thiết đãi khách quý tại bar ...



Không gian tuyệt đẹp bên ngòai hầm rượu






Du khách được thưởng thức rượu vang sau một vòng tham quan hầm rượu tại quầy bar, sát cạnh hầm rượu ...


Ở đây (Bà Nà Hills) thời tiết thay đổi bốn mùa trong một ngày ...












Thế này là vui rồi ! Đơn giản mà tình cảm ( Cháo gà nóng hổi vừa thổi vừa sơi... ha ha ha )







_________________


Được sửa bởi Toc Trang ngày Năm 8 28, 2014 10:42 pm; sửa lần 13.
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Tư 8 27, 2014 3:07 am    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Đèo Hải Vân

Đèo Hải Vân còn có tên là đèo Ải Vân (vì trên đỉnh đèo xưa kia có một cửa ải) hay đèo Mây (vì đỉnh đèo thường có mây che phủ), cao 500 m (so với mực nước biển), dài 20 km, cắt ngang dãy núi Bạch Mã (là một phần của dãy Trường Sơn chạy cắt ra sát biển) ở giữa địa giới tỉnh Thừa Thiên-Huế (ở phía Bắc) và thành phố Đà Nẵng (ở phía Nam), Việt Nam.

Lịch sử

Di tích Hải Vân Quan

Theo sử liệu, trước năm Bính Ngọ (1306), vùng đất có đèo Hải Vân thuộc về hai châu Ô, Rí của vương quốc Chămpa (còn gọi là Chiêm Thành). Sau khi được vua Chămpa là Chế Mân cắt làm sính lễ cầu hôn Công chúa Huyền Trân đời Trần vào năm vừa kể (1306), thì ngọn đèo chính là ranh giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành.

Khoảng một thế kỷ sau, vào năm Nhâm Ngọ (1402), nhà Hồ (dưới triều Hồ Hán Thương) sai tướng Đỗ Mãn đem quân sang đánh Chiêm Thành, khiến vua nước ấy là Ba Đích Lại (Jaya Sinhavarman V) phải cắt đất Chiêm Động và Cổ Lũy để cầu hòa [2]. Kể từ đó, cả vùng đất có đèo Hải Vân mới thuộc hẳn về nước Đại Ngu (tức Việt Nam ngày nay), và trở thành ranh giới tự nhiên của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam, như sách Phủ Biên tạp lục của Lê Quý Đôn đã chép: "Hải Vân dưới sát bờ biển, trên chọc từng mây là giới hạn của hai xứ Thuận Hóa và Quảng Nam" [3].

Vào thời Nguyễn, đèo Hải Vân vẫn là chỗ giáp giới giữa Thừa Thiên và Quảng Nam. Phía bắc chân núi giáp vực biển có hang Dơi, tục gọi là bãi Tiêu. Tương truyền xưa có thần sóng, thuyền đi qua đó thường bị lật chìm, nên ngạn ngữ có câu: "Đường bộ thì sợ Hải Vân/ Đường thủy thì sợ sóng thần Hang Dơi"[4].

Một vài thông tin khác
Trong nhiều thế kỷ, đường Cái Quan (nay là Quốc lộ 1 A) băng qua đèo Hải Vân rất ít người dám qua lại, bởi đường hiểm, thú dữ và kẻ cướp...Bởi vậy mà văn hóa giữa hai miền Bắc-Nam ít được giao lưu. Về sau, con đường này đã thông thoáng hơn (dưới thời Pháp thuộc, người Pháp đã cho xây dựng tuyến đường sắt quanh co qua con đèo này. Ngày 5 tháng 6 năm 2005, hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân cũng đã được đưa ra vào sử dụng, càng tạo thuận lợi cho việc đi lại), nên trở ngại ấy đã không còn nữa, tuy nhiên, đèo Hải Vân vẫn là một "hàng rào" ngăn cản một phần khí hậu giữa hai miền .

Ngày nay, trên đỉnh đèo Hải Vân vẫn còn dấu vết của một cửa ải. Cửa ải này gọi là Hải Vân Quan (雲海關), xây từ đời Trần, và được trùng tu vào thời Nguyễn (Minh Mạng thứ 7, 1826). Cửa trông về phủ Thừa Thiên đề ba chữ "Hải Vân Quan", cửa trông xuống Quảng Nam đề "Thiên hạ đệ nhất hùng quan" (do vua Lê Thánh Tông phong tặng khi ông dừng quân ở đây vào năm Canh Thìn, 1470). Sách Đại Nam thực lục chính biên chép:

"Phía trước, phía sau đều đặt một cửa quan (ngạch trước viết ba chữ "Hải Vân quan" (雲海關), ngạch sau viết 6 chữ "Thiên hạ đệ nhất hùng quan" (天下第一雄關). Cửa trước cao và dài đều 15 thước, ngang 17 thước 5 tấc, cửa sau cao 15 thước dài 11 thước, ngang 18 thước 1 tấc, cửa tò vò đều cao 10 thước 8 tấc, ngang 8 thước 1 tấc. Phía tả hữu cửa quan, xếp đá làm tường, trước sau tiếp nhau. Phái biền binh 4 đội Hữu sai và 2 đội Ứng sai chở súng ống đến để đấy (súng quá sơn bằng đồng 5 cỗ, ống phun lửa 200 ống, pháo thăng thiên 100 cây và thuốc đạn theo súng). Chuẩn định từ Hải Vân trở ra Bắc thuộc quản hạt Thừa Thiên, từ ngoài Hải Vân trở vào Nam thuộc quảng hạt Quảng Nam".
Đáng tiếc là di tích này đang bị xuống cấp trầm trọng .

Một lô cốt còn lại trên đỉnh Hải Vân


Mặc dù ngày nay đã có hầm đường bộ xuyên đèo Hải Vân, và địa hình của đường đèo vẫn còn một số hiểm trở, song nhiều du khách vẫn thích đi trên con đường này để thưởng ngoạn. Vào những ngày đẹp trời, họ có thể thấy khá rõ một phần thành phố Đà Nẵng, Cảng Tiên Sa - Bán đảo Sơn Trà, Cù lao Chàm,... và những bãi cát vàng chạy dài ôm lấy mặt nước bao la trong xanh của biển.


Đi Huế bằng xe máy trên đường đèo Hải Vân để ngắm cảnh và chụp nhanh vài tấm hình lưu niệm ...




















Hải Vân quan ...





Nghỉ chân dưới Hải Vân quan ...





















Chợ An Cựu nằm ở bờ sông An Cựu, chỗ tiếp giáp giữa đường Phan Đình Phùng và đường Hùng Vương. Trước đây, chợ có tên là chợ Đường Ngang vì nó nằm trên một trong những ngang thẳng góc với sông Hương.
Kể từ Tây lại, sứ sang
Đò Trường Tiền khác bến, chợ Đường Ngang đổi dời
Ơi em ơi, em ăn ở làm cho có đất có trời,
Đừng ham duyên mới phụ lời nước non.
(Ca dao)
Chợ lập bên bờ sông An Cựu thuộc địa phận làng An Cựu, huyện Hương Trà (nay là phường Phú Hội, thành phố Huế) từ thời Minh Mạng, năm 1835 dựng Nam Trường Đình ở đây, về sau có người Hoa buôn bán đông đúc. Nay vẫn là một trong những chợ sầm uất ở phía nam thành phố Huế.

Ở vị trí này bây giờ là Nhà Văn Hoá Trung Tâm. Nhưng vì gần đó có trại lính Pháp nên người Pháp bắt chợ phải dời đến địa điểm hiện nay.



_________________


Được sửa bởi Toc Trang ngày Sáu 8 29, 2014 12:37 am; sửa lần 7.
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Tư 8 27, 2014 7:49 am    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này


Lá trúc che ngang mặt chữ điền ...

LỊCH SỬ CẦU TRƯỜNG TIỀN



Cầu Trường Tiền hay cầu Tràng Tiền là chiếc cầu (dài 402,60m; rộng 5,40m) bắc qua sông Hương. Đầu cầu phía Bắc thuộc phường Phú Hòa, đầu cầu phía Nam thuộc phường Phú Hội; ở ngay giữa thành phố Huế, Việt Nam.

Lịch sử và tên gọi

Thi sĩ Quách Tấn, đã căn cứ bài thơ Thuận Hóa thành tức sự (chép bên dưới) của nhà thơ Thái Thuận nói rằng dưới thời vua Lê Thánh Tông (1442-1497), sông Hương đã có cầu. Và chiếc cầu đó, được làm bằng song mây bó chặt lại với nhau và nối liền nhau, nên có tên là cầu Mây. Rồi vì cầu có hình cái mống úp lên sông, nên còn có tên là cầu Mống.
Trải bao năm tháng, không biết năm nào, cầu Mống được làm lại bằng gỗ, mặt cầu lát bằng ván gỗ lim.
Năm Thành Thái thứ 9 (1897), chiếc cầu trên được nhà cầm quyền Pháp (khi ấy Khâm xứ Trung Kỳ làLevecque) giao cho hãng Eiffel (Pháp) thiết kế (do Gustave Eiffel thiết kế) và xây dựng lại bằng sắt, đến năm Thành Thái thứ 11 (1899) thì hoàn thành và được mang tên vị vua này.
Tổng cộng tiền xây cầu Thành Thái tiêu tốn hết khoảng 400 triệu đồng, là một số tiền lớn vào thời đó.
Nhưng sau khi vua Thành Thái bị thực dân Pháp đày sang đảo Réunion, thì nhà cầm quyền cho đổi tên là cầu Clémenceau, theo tên của một Thủ tướng Pháp thời Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Đến năm Giáp Thìn (1904), bão lớn làm cầu hư hỏng nặng.
Hai năm sau, tức năm Thành Thái thứ 16 (1906), chiếc cầu mới được sửa chữa lại bằng xi măng cốt thép. Tổng chiều dài cây cầu là 401,10m, rộng 6,20m, có 6 vài, 12 nhịp, mỗi nhịp được thiết kế hình bán nguyệt. Và hình thức này, vẫn giữ được cho đến ngày hôm nay.

Năm 1945 chính phủ Trần Trọng Kim đổi tên là cầu Nguyễn Hoàng. Và dù lần lượt có nhiều tên gọi, nhưng từ rất lâu, cái tên cầu Trường Tiền (vì chiếc cầu nằm gần một công trường đúc tiền, gọi tắt là Trường Tiền của nhà Nguyễn và phố Trường Tiền do vua Thành Thái lập năm 1899) vẫn được người dân quen gọi và đã đi vào nhiều bộ môn nghệ thuật...

Đến năm 1937, cầu được mở rộng thêm hai hành lang ở hai bên, dành cho người đi bộ, xe đạp và những bao lơn (ban công) hình bán nguyệt được tạo ra ở 5 trụ cầu giữa 2 vai để có chỗ dừng chân, hay né tránh nhau.
Năm 1946, trong chiến tranh Việt - Pháp, cầu bị đặt mìn giựt sập hai phía tả ngạn. Hai năm sau cầu được tu sửa tạm để qua lại.
Trong Tết Mậu Thân, trụ 3 và nhịp 7 bị phá hủy. Một chiếc cầu phao được dựng lên tạm thời cho người qua sông và sau đó, cầu đã được sửa chữa lại.

Từ năm 1991 đến 1995, công ty Công ty Cầu 1 Thăng Long lãnh trách nhiệm trùng tu, xây lại hai nhịp cầu, đổi màu cầu từ màu dụ bạc sang màu lam, nên chiếc cầu không còn giống chiếc lược ngà và không còn lấp lánh dưới ánh mặt trời nữa. Tất cả các bao lơn cũng bị phá bỏ. Trước đây mặt cầu rộng 6m20, nhưng sau khi sửa chữa xong, chỉ còn 5m40, cho nên chỉ có xe loại nhỏ mới qua lại cầu được.

Cầu Trường Tiền trong Văn học nghệ thuật

Tên Cầu Mống đã xuất hiện trong thơ Thái Thuận:
Thuận Hóa thành tức sự
(Quách Tấn dịch)
Ghe thuyền qua lại sớm liền trưa
Cầu Mống giăng sông cửa nước chừa.
Mây lẫn bóng non trời rộng mở,
Gió dồn tiếng sóng biển xa đưa.
Chợ chiều tấp nập thân là lụa,
Nét bút bồi hồi nhịp trúc tơ.
Ca nữ quản bao dòng huyết hận,
Địch đài trổi khúc lạc mai xưa[4].
Sau Cầu Mống, là cầu Trường Tiền. Và công trình này đã nhanh chóng trở thành một thắng cảnh nổi tiếng, và là đề tài của nhiều bộ môn nghệ thuật.

Trích giới thiệu:

Cầu Trường Tiền sáu vài mười hai nhịp
Em theo không kịp
Tội lắm anh ơi!
Bấy lâu mang tiếng chịu lời
Anh có xa em đi nữa
Cũng tại ông Trời nên xa.

Năm 1906, chiếc cầu được đúc lại bằng bê tông cốt thép, nên có câu:

Chợ Đông Ba đem ra ngoài giại
Cầu Trường Tiền đúc lại xi-mon
Ơi người lỡ hội chồng con
Về đây gá nghĩa vuông tròn nước non...
Năm 1946, trong chiến tranh Pháp - Việt, cầu bị đặt mìn giựt sập. Sau đó, lại có câu:

Cầu Trường Tiền bấy nhiêu niên (năm) qua lại,
Kể tự đời Thành Thái đến nay.
Chạnh lòng biết hỏi ai đây,
Việc chi nên nỗi đang tay dứt cầu?

Trong thời gian Nguyễn Bính lưu lạc đến Huế, cầu Trường Tiền cũng đã xuất hiện trong thơ ông:
Cầu cong như chiếc lược ngà
Sông dài mái tóc cung nga buông hờ


Gustave Eiffel người thiết kế cầu Trường Tiền.

Đôi bờ đôi cánh tay vua
Cung nga úp mặt làm thơ thất tình...
...Bồng bồng sáu nhịp cầu cao
Thờ ơ bóng mát nơi nào cũng xanh...
(trích trong Vài nét Huế, 1941)
Trước năm 1975, ca sĩ Duy Khánh đã sáng tác ra bài Ai ra xứ Huế, trong đó có đoạn:

À ơi à ơi !
Chứ cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp
Vì thương nhau rồi chớ xin kịp về mau
À ơi ơi à! Hò ơi!
Kẻo rồi mai tê bóng xế qua cầu
Thì bạn còn thương bạn chứ biết gởi sầu về nơi mô
À ơi ơi à!...
Sau sự kiện Tết Mậu Thân, cầu Trường Tiền bị bom đạn gây hư hại nặng. Quá xúc cảm, nhạc sĩ Trầm Tử Thiêng viết bài hát Chuyện một chiếc cầu đã gãy để nói lên sự việc này, có những câu :

...Cầu thân ái đêm nay gẫy một nhịp rồi
Nón lá sầu khóc điệu Nam Ai tiếc thương lời vắn dài
Vì sao không thương mến nhau còn gây khổ đau làm lỡ nhịp cầu...
Ngoài ra, cầu Trường Tiền cũng đã được in trong bộ tem thư của Việt Nam

NGUYỄN TIẾN


Cầu Tràng Tiền sáu vài mười hai nhịp ... thương nhau rồi xin kịp về mau ...



Đường vào Thành Nội

Khám phá Đại Nội Huế
Du lịch Huế - địa điểm du lịch nổi tiếng Đại Nội bao gồm Hoàng Thành và Tử Cấm Thành, ngày nay thuộc địa phận Phường Thuận Thành, thành phố Huế.
Để đến du lịch nơi đây, bạn có thể tham gia tour du lịch đến Huế, hoặc tự tổ chức du lịch bụi. Đến đây bạn có thể tham quan Đại Nội Huế mà còn tham quan các địa điểm du lịch ở kinh thành Huế.
Sau khi hoà bình lập lại, Đại Nội đã được mở cửa cho công chúng và trở thành một điểm sáng bậc nhất, hấp dấn hàng triệu khách du lịch trong ngoài nước. Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Huế, thuộc Sở Văn hoá Thông tin tỉnh Thừa Thiên Huế, hiện đang chịu trách nhiệm quản lý di tích này. Cứ hai năm một lần hàng trăm nghìn người lại đến đây tham dự một lễ hội văn hóa lớn với sự hợp tác tích cực của Cộng hoà Pháp.

Ðại Nội Huế với kiến trúc nghệ thuật cung đình và vườn hào độc đáo đã được khởi công xây dựng vào khoảng hơn hai thế kỷ trước. Hoàng gia nhà Nguyễn bắt đầu bởi vua Gia Long qua 13 đời vua đã sinh hoạt tại Ðại Nội liên tục cho đến khi triều đại kết thúc sau tuyên bố thoái vị của vua Bảo Đại trong cuộc Cách mạng tháng 08 năm 1945.

Trước đó vào năm 1687, chúa Nguyễn Phúc Trân (1687-1691) đã cho xây dựng thủ phủ của Đàng Trong tại Huế. Rồi cung điện của triều đại Tây Sơn cũng đóng ở đây. Hoàng Thành được chính thức xây dựng năm 1804, nhưng để hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng hơn 100 công trình thì phải đến thời vua Minh Mạng vào năm 1833, mọi việc mới được hoàn tất.
Hoàng Thành có 4 cửa được bố trí ở 4 mặt. Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn, phía Đông có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa Hòa Bình. Các cầu và hồ được đào chung quanh phía ngoài thành đều có tên là Kim Thủy.

Mặt bằng Ðại Nội xây dựng theo hình gần vuông, mỗi cạnh khoảng 600m, trên một diện tích rộng tới 37,5 ha. Tường thành xây bằng gạch to, cao 4m, dày 1m, ngoài thành là hào vây quanh với 10 chiếc cầu đá bắc qua để ra vào. Trong Ðại Nội có hơn 100 công trình kiến trúc đẹp ở nhiều khu vực khác nhau với các chức năng khác nhau.

Cổng chính ra vào Ðại Nội là Ngọ Môn, nhìn về hướng Nam kinh thành, trước mặt có Cột Cờ và xa nữa là sông Hương.
Ngọ Môn năm cửa chín lầu
Một lầu vàng, tám lầu xanh
Ba cửa thẳng, hai cửa quanh
Chính giữa là Ngọ Môn, dành cho vua
Tiếp theo là Giáp Môn, dành cho quan lại
"Hai cửa quanh" là Dịch Môn, dành cho voi, ngựa và binh lính
"Chín lầu" chỉ lầu Ngũ Phụng (nằm phía trên Ngọ Môn), gồm 2 tầng nhưng có 9 mái. "Lầu vàng" nằm giữa, cao nhất, lợp ngói hoàng lưu ly (men vàng). "Tám lầu xanh" thấp hơn, lợp ngói thanh lưu ly (men xanh).

Hoàng Thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong là nơi cực kỳ trọng yếu, được phân bố chặt chẽ theo từng khu vực, tuân thủ nguyên tắc (tính từ trong ra): “tả nam hữu nữ”, “tả văn hữu võ”. Ngay cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự “tả chiêu hữu mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian). Các khu vực đó là:

Khu vực phòng vệ: gồm vòng thành bao quanh bên ngoài, cổng thành, các hồ (hào), cầu và đài quan sát.
Khu vực cử hành đại lễ: gồm từ Ngọ Môn, cửa chính của Hoàng Thành - nơi tổ chức lễ Duyệt Binh, lễ Truyền Lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa), lễ Ban Sóc (ban lịch năm mới)... đến điện Thái Hòa - nơi cử hành các cuộc lễ Đại Triều một tháng 2 lần (vào ngày 01 và 15 Âm lịch), lễ Đăng Quang, lễ Vạn Thọ, lễ Quốc Khánh...
Khu vực miếu thờ: được bố trí ở phía trước, hai bên trục dọc của Hoàng Thành theo thứ tự từ trong ra gồm: bên trái có các miếu thờ Nguyễn Kim (Triệu Tổ Miếu), miếu thờ các vị chúa Nguyễn (Thái Tổ Miếu); bên phải có các miếu thờ cha vua Gia Long là Nguyễn Phúc Luân (Hưng Tổ Miếu) và miếu thờ các vị vua nhà Nguyễn (Thế Tổ Miếu).
Khu vực dành cho bà nội và mẹ vua (phía sau, bên phải), gồm hệ thống cung Trường Sanh (dành cho các Thái hoàng Thái hậu) và cung Diên Thọ (dành cho các Hoàng Thái hậu), ngoài ra còn có điện Phụng Tiên thờ các vua Nguyễn, dành cho phái nữ đến lễ vì họ không được phép vào Thế Miếu.
Khu vực dành cho các hoàng tử học tập, giải trí như vườn Cơ Hạ, điện Khâm văn... (phía sau, bên trái).
Ngoài ra còn có kho tàng (Phủ Nội Vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia (phía trước vườn Cơ Hạ)
Khu vực quan trọng và rộng lớn nhất bên trong Ðại Nội là Tử Cấm Thành cũng có hình gần vuông, mỗi cạnh trên dưới 300m, vòng tường chung quanh cao 3,50m. Tử Cấm Thành nằm trên cùng một trục Bắc-Nam với Hoàng Thành và Kinh Thành, gồm một vòng tường thành bao quanh khu vực các cung điện như điện Cần Chánh (nơi vua tổ chức lễ Thường triều), điện Càn Thành (chỗ ở của vua), cung Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng Quý phi), lầu Kiến Trung (từng là nơi ở của vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương), nhà đọc sách và các công trình khác phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của nhà vua và gia đình như Thượng Thiện Đường (nơi phục vụ ăn uống), Duyệt Thị Đường (nhà hát hoàng cung) ...
Ngoài ra còn có Tôn Nhân Phủ là cơ quan trông coi miếu thờ và quản lý nội bộ Hoàng gia

Tuy có rất nhiều công trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hoàng Thành nhưng tất cả đều được đặt giữa thiên nhiên với các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Mặc dù quy mô của mỗi công trình có khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo kiểu “trùng lương trùng thiềm” (hay còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” - kiểu nhà kép hai mái trên một nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly (nếu có màu xanh) hoặc Hoàng lưu ly (nếu có màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mô típ long-vân (rồng-mây). Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa (một bài thơ kèm một bức tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo đề tài bát bửu, hay theo đề tài tứ thời.
Điều đáng nói ở đây là sự phân biệt nam nữ, lớn nhỏ, trên dưới theo địa vị, thứ bậc rõ ràng, áp dụng cho mọi đối tượng cho dù đó là thành viên trong hoàng tộc, là mẹ vua hay hoàng tử, công chúa. Nam có lối đi riêng, nữ có lối đi riêng, quan văn một bên, quan võ một bên. Tất cả nhất nhất đều chiếu theo quy định mà thực hiện, thể hiện rõ nét ý thức tập trung quân chủ, mọi quyền lực về tay nhà vua, đặc biệt là dưới triều vua Minh Mạng.
,
Đến nay, trải qua bao biến động và thời gian, hàng trăm công trình kiến trúc ở Đại Nội chỉ còn lại ít ỏi chiếm không đầy một nửa con số ban đầu. Nhưng với tư cách là tài sản vô giá của dân tộc, là thành quả lao động của hàng vạn người trong suốt một thời gian dài, khu di tích Đại Nội đang dần được trả lại dáng xưa cùng các di tích khác nằm trong quần thể kiến trúc đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới. Được sự đầu tư của nhà nước và sự giúp đỡ của bè bạn gần xa trong cộng đồng quốc tế thông qua các cuộc vận động nhằm cứu vãn, bảo tồn và phát huy những giá trị vật chất và tinh thần của di sản văn hóa Huế, nhiều di tích ở hoàng cung Huế đã từng bước được phục hồi, trở lại nguyên trạng cùng nhiều công trình khác đang được bảo quản, sửa chữa, góp phần gìn giữ khu di tích lịch sử thuộc triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam.













Sông Hương

Huế không chỉ gắn với vẻ đẹp cổ kính của những đền chùa, thành quách, lăng tẩm... mà còn nổi tiếng với dòng sông Hương thơ mộng.
Cầu Trường Tiền duyên dáng bắc qua sông Hương

Gọi là sông Hương vì từ xa xưa, dòng sông này chảy qua những cánh rừng nhiều thảo mộc có hương thơm, nên khi vào Huế, dòng sông đem theo hương thơm của cây cỏ thiên nhiên. Với độ dài 80 km, sông Hương uốn lượn trong thành phố Huế như một sự sắp đặt để làm vui lòng du khách.
Dòng nước trong xanh tĩnh lặng, thành quách, lầu xá hai bên bờ in bóng xuống dòng sông như là tranh vẽ. Chiếc cầu Trường Tiền màu trắng bạc bắc qua sông Hương, duyên dáng như cô gái Huế trong chiếc áo dài tím rất Huế…
Sông Hương như một dải lụa hiền hoà miên man chảy rồi như một người dẫn đường xuôi dòng nước đưa du khách đến miệt vườn Vỹ Dạ với vườn hoa thảm cỏ xanh mướt, ngược lên Thiên Mụ để thả mình theo tiếng chuông chùa văng vẳng, rồi đột ngột rẽ vào sông Bạch Yến tới bến Huyền Không để phiêu diêu cùng với gió mây, với thế giới của hoa trơm trái ngọt và thiền giữa một không gian cổ kính…


Sông Hương ... nghiêng bóng nắng đợi chờ ai ?









Chùa Thiên Mụ


Tháp Phước Duyên - Chùa Thiên Mụ ...

Chùa Thiên Mụ (񣘠天姥) hay còn gọi là chùa Linh Mụ là một ngôi chùa cổ nằm trên đồi Hà Khê, tả ngạn sông Hương, cách trung tâm thành phố Huế (Việt Nam) khoảng 5 km về phía tây. Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên Nguyễn Hoàng -vị chúa Nguyễn đầu tiên ở Đàng Trong.

Bốn trụ biểu và các bậc thang dẫn lên chùa Thiên Mụ
Trước thời điểm khởi lập chùa, trên đồi Hà Khê có ngôi chùa cũng mang tên Thiên Mỗ hoặc Thiên Mẫu, là một ngôi chùa của người Chăm1.

Truyền thuyết kể rằng : Khi chúa Nguyễn Hoàng vào làm Trấn thủ xứ Thuận Hóa kiêm trấn thủ Quảng Nam, ông đã đích thân đi xem xét địa thế ở đây nhằm chuẩn bị cho mưu đồ mở mang cơ nghiệp, xây dựng giang sơn cho dòng họ Nguyễn sau này. Trong một lần rong ruổi vó ngựa dọc bờ sông Hương ngược lên đầu nguồn, ông bắt gặp một ngọn đồi nhỏ nhô lên bên dòng nước trong xanh uốn khúc, thế đất như hình một con rồng đang quay đầu nhìn lại, ngọn đồi này có tên là đồi Hà Khê.

Người dân địa phương cho biết, nơi đây ban đêm thường có một bà lão mặc áo đỏ quần lục xuất hiện trên đồi, nói với mọi người: "Rồi đây sẽ có một vị chân chúa đến lập chùa để tụ linh khí, làm bền long mạch, cho nước Nam hùng mạnh". Vì thế, nơi đây còn được gọi là Thiên Mụ Sơn 2.

Tư tưởng lớn của chúa Nguyễn Hoàng dường như cùng bắt nhịp được với ý nguyện của dân chúng. Nguyễn Hoàng cả mừng, vào năm 1601 đã cho dựng một ngôi chùa trên đồi, ngoảnh mặt ra sông Hương, đặt tên là "Thiên Mụ".

Tên gọi
Dựa theo huyền thoại, đồng thời căn cứ hình dạng Hán tự từng ghi trên bao tài liệu cấu tạo bằng nhiều chất liệu, đủ khẳng định rằng trong tên Thiên Mụ, ngữ tố "Thiên" có nghĩa là "trời".

Năm 1862, dưới thời vua Tự Đức, để cầu mong có con nối dõi, nhà vua sợ chữ "Thiên" phạm đến Trời nên cho đổi từ "Thiên Mụ" thành "Linh Mụ" (hay "Bà mụ linh thiêng").

Vấn đề kiêng cữ như đã nêu chỉ diễn tiến từ năm Nhâm Tuất (1862) cho tới năm Kỷ Tỵ (1869). Sau đó, người dân thoải mái gọi hai tên: chùa Thiên Mụ và chùa Linh Mụ.

Vì rằng từ "Linh" đồng nghĩa với "Thiêng", âm người Huế khi nói "Thiên" nghe tựa "Thiêng" nên khi người Huế nói "Linh Mụ", "Thiên Mụ" hay "Thiêng Mụ" thì người nghe đều hiểu là muốn nhắc đến ngôi chùa này.

Một số người còn đặt tên cho chùa là Tiên Mụ (hay "Bà mụ thần tiên"). Cách gọi này không được giới nghiên cứu chấp nhận.

Chính điện
Chùa Thiên Mụ chính thức khởi lập năm Tân Sửu (1601), đời chúa Tiên - Nguyễn Hoàng.

Dưới thời chúa Quốc -Nguyễn Phúc Chu (1691-1725) theo đà phát triển và hưng thịnh của Phật giáo xứ Đàng Trong, chùa được xây dựng lại quy mô hơn. Năm 1710, chúa Quốc cho đúc một chiếc chuông lớn,nặng tới trên hai tấn, gọi là Đại Hồng Chung, có khắc một bài minh trên đó. Đến năm 1714, chúa Quốc lại cho đại trùng tu chùa với hàng chục công trình kiến trúc hết sức quy mô như điện Thiên Vương, điện Đại Hùng, nhà Thuyết Pháp, lầu Tàng Kinh, phòng Tăng, nhà Thiền... mà nhiều công trình trong số đó ngày nay không còn nữa. Chúa Quốc còn đích thân viết bài văn,khắc vào bia lớn (cao 2m60,rộng 1m2) nói về việc xây dựng các công trình kiến trúc ở đây,việc cho người sang Trung Quốc mua hơn 1000 bộ kinh Phật đưa về đặt tại lầu Tàng Kinh, ca tụng triết lý của đạo Phật, ghi rõ sự tích Hòa thượng Thạch Liêm - người có công lớn trong việc giúp chúa Nguyễn chấn hưng Phật giáo ở Đàng Trong. Bia được đặt trên lưng một con rùa đá rất lớn, trang trí đơn sơ nhưng tuyệt đẹp.

Với cảnh đẹp tự nhiên và quy mô được mở rộng ngay từ thời đó, chùa Thiên Mụ đã trở thành ngôi chùa đẹp nhất xứ Đàng Trong. Trải qua bao biến cố lịch sử, chùa Thiên Mụ đã từng được dùng làm đàn Tế Đất dưới triều Tây Sơn (khoảng năm 1788), rồi được trùng tu tái thiết nhiều lần dưới triều các vua nhà Nguyễn.

Năm 1844, nhân dịp mừng lễ "bát thọ" của bà Thuận Thiên Cao Hoàng hậu (vợ vua Gia Long, bà nội của vua Thiệu Trị), vua Thiệu Trị kiến trúc lại ngôi chùa một cách quy mô hơn: xây thêm một ngôi tháp bát giác gọi là Từ Nhân (sau đổi là Phước Duyên), đình Hương Nguyện và dựng 2 tấm bia ghi lại việc dựng tháp, đình và các bài thơ văn của nhà vua.

Tháp Phước Duyên
Tháp Phước Duyên là một biểu tượng nổi tiếng gắn liền với chùa Thiên Mụ. Tháp cao 21 m, gồm 7 tầng, được xây dựng ở phía trước chùa vào năm 1844. Mỗi tầng tháp đều có thờ tượng Phật. Bên trong có cầu thang hình xoắn ốc dẫn lên tầng trên cùng, nơi trước đây có thờ tượng Phật bằng vàng. Phía trước tháp là đình Hương Nguyện, trên nóc đặt Pháp luân (bánh xe Phật pháp, biểu tượng Phật giáo.Pháp luân đặt trên đình Hương Nguyện quay khi gió thổi).

Trận bão năm 1904 đã tàn phá chùa nặng nề. Nhiều công trình bị hư hỏng, trong đó đình Hương Nguyện bị sụp đổ hoàn toàn (nay vẫn còn dấu tích). Năm 1907, vua Thành Thái cho xây dựng lại, nhưng chùa không còn được to lớn như trước nữa. Hai bên tháp có hai nhà tứ giác, đặt hai tấm bia đời Thiệu Trị. Sâu vào bên trong là hai nhà lục giác, một nhà để bia và một nhà để quả chuông đúc đời chúa Nguyễn Phúc Chu.

Chùa Thiên Mụ được xếp vào 20 thắng cảnh đất Thần Kinh với bài thơ Thiên Mụ chung thanh do đích thân vua Thiệu Trị sáng tác và được ghi vào bia đá dựng gần cổng chùa.

Thiên Mụ Chung Thanh
Cao cương cổ sát trấn điền xuyên
Nguyệt tướng thường viên tự tại thiên
Bách bát hồng thanh tiêu bách kết
Tam thiên thế giới tỉnh tam duyên
Tăng hoằng ngọ nhật u minh cảm
Liêu lượng dần tiêu đạo vị huyền
Phật tích Thánh công thùy hải vũ
Thiện nhân tăng quả phổ cai diên.
Dịch thơ: Tiếng Chuông Thiên Mụ
Trên bến gò xưa chùa lập ra
Bên trời tự tại mãi Gương Nga
Tiếng ngân trăm tám tan trăm oán
Thế giới ba ngàn giải nợ ba
Chuông động giữa trưa miền tối
Kinh gieo canh sớm đạo tăng gia
Truyền công Phật Thánh tràn non nước
Nhân quả ươm lành khắp chốn xa
Qua nhiều đợt trùng tu lớn nhỏ, ngoài những công trình kiến trúc như tháp Phước Duyên, điện Đại Hùng, điện Địa Tạng, điện Quan Âm... cùng bia đá, chuông đồng, chùa Thiên Mụ ngày nay còn là nơi có nhiều cổ vật quí giá không chỉ về mặt lịch sử mà còn cả về nghệ thuật. Những bức tượng Hộ Pháp, tượng Thập Vương, tượng Phật Di Lặc, tượng Tam Thế Phật... hay những hoành phi, câu đối ở đây đều ghi dấu những thời kỳ lịch sử vàng son của chùa Thiên Mụ.

Trong khuôn viên của chùa là cả một vườn hoa cỏ được chăm sóc vun trồng hàng ngày. Ở đó, hòn non bộ của vị tổ nghề hát tuồng Việt Nam là Đào Tấn được đặt gần chiếc xe ô tô - di vật của cố Hòa thượng Thích Quảng Đức để lại trước khi châm lửa tự thiêu để phản đối chính sách đàn áp Phật giáo của chế độ Ngô Đình Diệm năm 1963.

Cuối khu vườn là khu mộ tháp của cố Hòa thượng Thích Đôn Hậu, vị trụ trì nổi tiếng của chùa Thiên Mụ, người đã cống hiến cả cuộc đời mình cho những hoạt động ích đạo giúp đời.








Được tiếp chuyện với sư thầy Thích Trí Tựu chủ trì chùa Thiên mụ ... nghe mà thấm thía ! Đạo pháp nhiệm màu !


Một góc sân chùa ...


Cổng chùa đối diện với Sông Hương ... Phong cảnh nên thơ ! Khi tiếng chuông chùa ngân lên vang tỏa khắp thành phố Huế ... làm sâu lắng lòng người ...


Nét kiến trúc Huế bây giờ ...






Cầu Bạch Hổ ...


Dừng chân tại biển chiều Nam Ô




_________________


Được sửa bởi Toc Trang ngày Bảy 8 30, 2014 9:31 am; sửa lần 17.
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Tư 8 27, 2014 8:27 am    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Cà phê Minh Vi ... Đà Nẵng




Quà quê ... của Thành !






Cô bạn Nga chu đáo quá ! Chuẩn bị lương thực cho đoàn lên chùa Linh Ứng


Chuẩn bị khởi hành ... "Tài xế " Khánh Hòa rất nhiệt tình ... luôn vui vẻ và dễ thương ...






_________________
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Tư 8 27, 2014 8:36 pm    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Chùa Linh Ứng – Sơn Trà

Chùa Linh Ứng Sơn Trà nằm tựa lưng vào đỉnh Sơn Trà vững chãi, được xem là ngôi chùa lớn nhất ở thành phố Đà Nẵng cả về quy mô cũng như kiến trúc nghệ thuật. Điện chính có sức chứa lớn, là nơi trang nghiêm và thanh tịnh nhất.
Chính giữa là tượng Phật Bổn Sư Thích Ca Mô Ni, bên phải là Quan Thế Âm Bồ Tát, và bên trái là Tam Tạng Phật, bốn vị Thần Long Hộ Pháp cùng 18 vị La Hán được sắp xếp theo một quy luật, bảo vệ cho chính điện.

Sơn Trà còn là nơi giao hòa giữa biển trời với núi sông trong khoảng không trầm lặng, với tiếng vỗ rì rầm của biển cả và lời kể về một câu chuyện thuở xưa: Vào thời vua Minh Mạng, dân chài ven biển nơi đây đã phát hiện một tượng Phật trên bãi cát, bằng lập am thờ tự. Và rồi, Ngài Quán Thế Âm cứu khổ cứu nạn xuất hiện cứu người vượt vòng trầm luân, kể từ đó sóng yên biển lặng, dân chài yên ổn làm ăn, từ đó nơi đây có tên gọi là Bãi Bụt, hay còn gọi là Cõi Phật giữa chốn trần gian.

Chùa Linh Ứng Bãi Bụt được xây dựng trên khu đất rộng 12ha ở bán đảo Sơn Trà. Ngôi chùa được xây dựng kết hợp hài hòa giữa kiến trúc thanh tân và truyền thống kiến tạo thẩm mỹ cổ truyền Á Đông.

Đặc biệt, tại chùa Linh Ứng Bãi Bụt có tượng Phật Quan Thế Âm được xem là cao nhất Việt Nam (cao 67m, đường kính tòa sen 35m). Tượng đứng tựa lưng vào núi, hướng ra biển, đôi mắt hiền từ nhìn xuống, một tay bắt ấn tam muội, tay kia cầm bình nước cam lồ như rưới an bình cho những ngư dân đang vươn khơi xa. Trên mão tượng Quan Âm có tượng Phật Tổ cao 2m. Trong lòng tượng có 17 tầng, mỗi tầng đều có bệ thờ tổng cộng 21 bức tượng Phật với hình dáng, vẻ mặt, tư thế khác nhau, gọi là “Phật trung hữu Phật”.
Cổng TTĐT thành phố

Chạy dọc theo bờ biển đường lên chùa Linh Ứng ... ngồi trong ô tô chụp nhanh cảnh vật bên ngoài ...


Xa xa tượng Phật bà Quan Âm ...




































_________________


Được sửa bởi Toc Trang ngày Năm 8 28, 2014 6:12 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Tư 8 27, 2014 9:17 pm    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Hội An thẳng tiến




Đến Hội An trời vừa sẩm tối mấy chị em vào thưởng thức món hoành thánh xào ... ui, đói bụng, hấp dẫn quá...


Có thực mới vực được đạo ... he he he ...


Làm thêm mỗi chị một tô mì hoành thánh nghe !


Phố đêm Hội An ...


Mình em trên phố ...






Thả đèn xuống nước ... bằng một cây sào ...












_________________


Được sửa bởi Toc Trang ngày Năm 8 28, 2014 2:31 am; sửa lần 3.
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Tư 8 27, 2014 9:39 pm    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Biển chiều Đà nẵng...












_________________


Được sửa bởi Toc Trang ngày Năm 8 28, 2014 2:36 am; sửa lần 1.
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Năm 8 28, 2014 12:40 am    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Buổi sáng trên sông Hàn...


Cầu Rồng

Cầu Rồng dài 666m và rộng 37.5m với 6 làn xe chạy. Nó được chính thức thông xe ngày 29 tháng 3 năm 2013, kinh phí xây cầu gần 1,5 nghìn tỷ đồng (US$88m).[3] Cầu được thiết kế bởi Ammann & Whitney Consulting Engineers với tập đoàn Louis Berger. Việc xây dựng được thực hiện Tổng công ty xây dựng công trình giao thông 1.

Cây cầu hiện đại này bắc qua sông Hàn tại bùng binh Lê Đình Dương/Bạch Đằng, tạo con đường ngắn nhất từ sân bay quốc tế Đà Nẵng tới các đường chính trong thành phố Đà Nẵng, và một tuyến đường trực tiếp đến bãi biển Mỹ Khê và Bãi biển Non Nước ở rìa phía đông của thành phố. Cầu được thiết kế và xây dựng với hình dạng của một con rồng có khả năng phun lửa và phun nước như thật. Hiện tại, thời gian phun lửa và phun nước bắt đầu vào lúc 21 giờ các ngày Thứ Bảy, Chủ nhật hàng tuần và các ngày Lễ lớn.









_________________


Được sửa bởi Toc Trang ngày Năm 8 28, 2014 6:40 am; sửa lần 4.
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Năm 8 28, 2014 12:49 am    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Bãi tắm Mỹ Khê ...




















_________________
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Toc Trang
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 1767

Bài gửiGửi: Năm 8 28, 2014 1:00 am    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này




Kính lão đắc thọ ...

Chào tạm biệt Đà Nẵng ...



_________________
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng » Trang Hình Ảnh Của Bạn Thời gian được tính theo giờ EST (U.S./Canada)
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn


Powered by SaoMaiDaNang © Nho'm SaoMai DaNang
Designed for SaoMaiDanang - Nam cuoi cung cua truong SAO MAI