Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng
Đăng Nhập Đăng ký Trợ giúp Thành viên Tìm kiếm Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng

Gót chân thơ PhanXuanSinh

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng » Thơ Văn Phan Xuân Sinh
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Tác giả Thông điệp
Nguyen Ngoc Hai
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 10 9 2009
Số bài: 1789
Đến từ: Viet Nam

Bài gửiGửi: Hai Tháng 5 03, 2010 11:55 am    Tiêu đề: Gót chân thơ PhanXuanSinh Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Xin giới thiệu một bài cảm nhận về thi phẩm của S/huynh PhanXuanSinh - bài của Hà Khánh Quân
______________________________________


Gót Chân Thơ Phan Xuân Sinh
Hà Khánh Quân

Trong thi phẩm đầu tiên của riêng mình, Đứng Dưới Trời Đổ Nát, Phan Xuân Sinh đã mở đầu, bằng những lời cảm ơn và kín đáo ngợi ca người đàn bà, đã già nửa đời nằm bên cạnh. Lối nịnh vợ cùng đóng thuế này không lạ. Nhưng đặc biệt hơn nhiều tác giả khác ở chỗ, tặng phẩm của anh làm bằng thơ, với thể loại thuần túy của dân tộc:

cảm ơn em, cảm ơn đời
tình sau, nghĩa trước. Một đời bao dung
giữa bao nhiêu cái khốn cùng
còn cho nhau chút thủy chung giữ mình
(Bài thơ cho vợ hiền – đứng dưới trời đổ nát)

Tình sau nghĩa trước chắc hẳn xuất phát từ thành ngữ “tình sâu nghĩa nặng”, Ở đây không ngụ ý sắp xếp, bởi tình và nghĩa vốn thường đi sánh vai nhau. Và chỉ với “Một đời bao dung” đủ cho chúng ta nâng chén, mừng hạnh phúc của đôi trẻ Thiên Nga, Xuân Sinh có chút thủy chung. Một chút ở đây vốn rất vô cùng.

Những sôi nổi của thời mới chạm mặt, mới yêu, theo tự nhiên sống ẩn mật trong hạnh phúc. Thơ viết cho người phối ngẩu, từ đó trở thành những động tác yêu thương không văn tự. Trôi mãi trong tháng ngày bình thản, người làm thơ nhiều khi tưởng như thiếu một góc trời để thở, và đi tìm những ba hoa trong ngôn ngữ, trong những tưởng tượng giàu hình ảnh, để rồi một ngày, không lầm lỗi, sai trái gì, cũng chợt giật mình tự động dựng những rào đón, những trấn an cho chính mình hơn là cho người vợ. Đây có lẽ là một chiêu hâm nóng tình yêu rất hữu hiệu. Nhà thơ Phan Xuân Sinh cũng thực hiện nghệ thuật (hay xảo thuật) đó:

em tiếc gì không một thời con gái ?
mười chín tuổi đời quày quảy theo chồng
ta thằng hư thân. Sống đời bạt mạng
cũng chẳng ra chi cái thứ cuồng ngông
lỗi của ta thì ngập đầu ngập cổ
bữa trước bữa sau, dối vợ đợ con
em cắn răng, chịu đời khổ tận
bao năm qua u uất trong lòng
em vất vả đắng cay chồng chất
gió sớm mưa chiều phủ lên đầu
lặn lội đơn thân ngoài cõi vắng
âm thầm quay quắt suốt đêm thâu
một đời em tối ngày tất bật
nên yêu em ta gác chuyện ăn chơi
ngựa hoang đàng là ngựa quen đường cũ
ta hoang đàng ta chỉ biết hầm hơi
sư trong chùa cũng ba hồi lầm lạc
huống gì ta một đứa thất phu
nghĩ cho cùng cũng chưa hèn mạt
chỉ biết mình còn hơi vụng đường tu
thôi em ạ, đừng buồn lòng ta nữa
chuyện vợ chồng ta tính chuyện trăm năm
có đâu nỡ phải tính ngày tính bữa
để rộng đường ta sám hối ăn năn
mỗi lần hôn em thấy mình sống lại
em vẫn thơm, vẫn ngọt như đường
ta chết lặng, trách mình lầm lỡ
tạ lỗi em. Em thiệt dễ thương
(Tạ lỗi với vợ hiền, đứng dưới trời đổ nát ĐDTĐN)

Qua bài thơ, ta thấy Phan Xuân Sinh thật chắc tay trong nghệ thuật dỗ ngọt, làm lành. Trước tiên, anh thăm dò người tình trăm năm có hối tiếc việc quyết định đi bên đời mình. Tiếp theo là màn tự kiểm điểm, tự bào chữa (ngựa hoang đàng là ngựa quen đường cũ ta hoang đàng ta chỉ biết hầm hơi) nhưng vẫn không quên đánh giá tốt cái “tôi” của mình. Cái tôi ấy giàu hình ảnh một bậc hảo hớn, đội trời đạp đất ngang dọc, chưa chắc đã thua Từ Hải của cụ Nguyễn Du. Anh còn đi xa hơn, khi trưng ra những đạo hạnh của các vị nương nhờ cửa Phật (nương nhờ chứ chưa hẳn đã tu) để so sánh với mình. Và sau cùng, mới thật sự xuống nước, phân trần và hứa hẹn. Bao nhiêu hờn giận lẫn lầm lỗi (dù có thật) cũng sẽ tan biến nhanh chóng, sau phút giây dắt nhau qua khoái cảm. Lời nịnh chiến thắng nhẹ nhàng mở ra: em thật dễ thương. Chẳng có thể trách gì nhà thơ, nhưng cũng không nên vỗ tay.

Phan Xuân Sinh còn tiếp tục làm thơ tình cho vợ. Trong thi phẩm Khi Tình Đang Ru Đời, ba đoạn lục bát cho chị Thiên Nga rất “mùi”:

“một mai có kiếp luân hồi
ta xin trở lại một đời làm thơ
một mai thỏa những ước mơ
tình như đã chín bên bờ ngủ say
em nằm yên ngủ trên tay
ta nằm yên thấm những ngày có nhau
từng đêm chung gối tựa đầu
một lời đã thấu ơn sâu nghĩa tình
bóng thời gian đã qua nhanh
yêu nhau rực chín ngọn nhành yêu thương
trải đời qua mấy dặm trường
vẫn đeo nhau mãi một đường Thiên Nga”

Mai mốt, Phan Xuân Sinh in tác phẩm mới, chắc chắn những người yêu thơ, còn được đọc ké “cô bé” này, nhiều lời ngọt như đường khác.

Thơ tình yêu nam nữ, nói dân dã hơn, thơ trai gái, luôn luôn là chủ đề số một trong “vũ trụ thơ” (chữ của nhà phê bình Đặng Tiến). Luận về loại thơ tình yêu này dễ sinh ra lẩn thẩn, không biết chừng lây bệnh làm thơ luôn. Nhưng dẫu sao, đang dạo chơi trong vườn thơ Phan Xuân Sinh, cũng nên xem anh có những thói quen nào khi săn tình, khi bị tình phụ…

Cũng như một số người làm thơ khác, tác giả Đứng Dưới Trời Đổ Nát, sau khi bắt gặp một bóng hồng vừa ý, thơ anh thành hình dưới bộ khung:

- phác họa chân dung cùng cử chỉ.
- tùy theo phản ứng của đối tượng, bày ra tâm trạng
- thả lời thăm dò, tán tỉnh, tỏ tình

Ngôn ngữ tình yêu, dù có thay đổi cách tân đến đâu, vẫn luôn luôn đọng lại một số từ căn bản, không bắt buộc, nhưng người làm thơ tự nhiên phải dùng. Bài thơ được đánh giá bằng thước đo:

- Mức rung động, xúc cảm của người viết.
- Sự chân tình lẫn hoa tay diễn đạt.
- Sự linh động, có hơi thở của hình ảnh, màu sắc

Thơ Phan Xuân Sinh như thế nào ? Mời các bạn cùng thẩm định qua một số trích đoạn:

“một dạo, ta ngồi lỳ ở đó
nhìn em qua đò áo đỏ lụa bay
mắt ta dán chặt vòng eo nhỏ
em xốn xang qua cái chau mày
ta tưởng mình đùa chơi đôi chút
nào hay lòng rũ rượi bất an
bởi em, áo lụa mờ đôi mắt
ta thẩn thờ giữa bến Hà Thân…”
(nhìn em qua đò Hà Thân – Đứng dưới trời đổ nát)

ghi nhận riêng:

- Thơ rất sinh động, giàu hình ảnh.
- Thành công trong việc chọn chữ : ngồi lỳ, dán chặt
- Sắp xếp ngôn từ trong câu thơ thích hợp: em xốn xang qua cái chau mày” / “bởi em, áo lụa mờ đôi mắt”
- tổng thể giản dị nhưng giàu cất thơ

“một giọt nắng, đủ làm ta choáng ngợp
huống chi em mang cả một bầu trời
nên ta mãi cứ đeo hoài mỏi mệt
để hồn ta tràn ngập chút tình rơi”
(Chút tình)

ghi nhận riêng:
- có những liên tưởng thích hợp
- động tự “đeo” rất đẹp
Thưa: chỉ xin ba hoa chút xíu gọi là góp ý vậy thôi. Những đoạn tiếp theo, tôi tin có nhiều sự thưởng ngoạn khác nhau, tùy theo cảm nhận của từng người đọc.

“ em đỏng đảnh treo mảnh tình trên giá
ta ngước nhìn thèm ứa máu chạy quanh
em có biết tình chín mùi bay tỏa
chết lịm hồn ta và rất mong manh”
(Mùi hương)

“… Huế rộn rã tiếng guốc khua đường phố
nón che đầu e ấp buổi tan trường
em sợ ai mà bước đi vội vã
để má hồng còn đọng chút nắng vương
ta chết điếng một thời, em Thượng Tứ
bởi nụ cười, môi mỏng gái thâm cung…”
(Chút tình cho Huế ĐDTĐN)

“em ghé qua vườn ta chơi
đôi chân trần em trên cỏ
áo bay vờn quanh trong gió
hương tỏa ngập cả lòng ta
bóng chiều tha thướt em qua
là lòng ta đầy bối rối
ta trăn trở dài trên gối
mà nào em có hay đâu…”
(Thở bằng trái tim em – KTRĐ)

“ này em thân cõi phù trầm
tóc tung hồ nguyệt, mắt đầm đìa buông
tàn thu chiều ngậm hơi buồn
giữa mênh mông, Giữa ngạnh nguồn nổi trôi
nụ cười chợt lịm trên môi
em thâm cung giữa một đời quân vương
lụi tàn phế tích phấn hương
cũng bay theo gió tứ phương. Nhuộm màu
quan san, cũng ngậm ngùi đau
trái ưu phiền rụng trên đầu hắt hiu
ta về góp nhặt tiêu điều
trải lòng ra giữa một chiều nắng hanh
mời em vào cứ dạo quanh
em thong dong giữa ngọn ngành tim ta”
(Dạo vườn buổi tàn thu ĐDTĐN- 17-18)

Theo tôi, trong cả hai thi phẩm Đứng Dưới Trời Đổ Nát và Khi Tình Đang Ru Đời, chủ đề lớn nhất là những suy tư về kiếp nhân sinh. Tác giả đã lồng những suy ngẫm, cảm xúc của mình dưới nhiều góc cạnh của đời sống. Thơ đã tìm đến với tác giả từ những địa danh, từ những buổi cụng ly, từ những tưởng tượng ngẫu hứng, từ những tình huống tình cờ…

Phan Xuân Sinh là người rất mê rượu, hơn nữa anh là người từng làm chủ vài tiệm rượu tại Hoa Kỳ, nên tôi xin mở cánh cửa này trước.

Chứng nghiệm từ thực tế, thành ngữ “rượu vào lời ra” chính xác chừng 70%. Áp dụng lên ông nhà thơ, gốc quân đội Việt Nam Cộng Hòa, có thể đúng được một nửa. Thật vậy, Phan Xuân Sinh, sau khi nạp men nồng vào cơ thể, anh cũng thả lời ra rất nhiều. Rất may những lời anh phân phát, là những dòng thơ, mà theo tôi, đẹp đứng hàng đầu trong tổng thể thi ca của anh.

Nhà văn Trần Doãn Nho (Trần Hữu Thục) đã dùng những từ: u uất, ngang tàng, sâu, chân chất, cuồng ngạo, xót xa…để nói lên sắc thái thơ Phan Xuân Sinh. Tôi nghĩ, để có những nhận xét tinh tường và xác thực ấy, Trần Doãn Nho đã dựa lên những bài thơ rượu của bạn mình. Nguyên văn của nhà biên khảo Trần Hữu Thục (TDN):

“Hơi thơ của Phan Xuân Sinh lạ, ngang tàn mà u uất, cuồng ngạo mà xót xa, sâu mà chân chất. Trong cuộc rượu đọc lên nghe nghèn nghẹn, tưng tức và cảm giác như muối xác vào lòng.”
Thơ dẫn chứng:

trên chiếu rượu. Bạn là tay cự phách
cỡ như ta cũng phải chầu rìa
nhào vô. Chỉ thấy mình lãnh đạn
thối lui…đâu được. Cứ lia chia
máu Quảng Nam ta, hơi thô lỗ
vài ba chén rượu, đã cãi càng
bận tâm chi mấy lời nói sảng
rượu vô, điên tiết cứ huênh hoang
ta nói bạn: cường hào ác bá
là khen cái hay của bạn hơn người
ngửa cổ, rượu tu không biết mệt
trải lòng ra hết giữa cuộc vui
nghe bạn nói, đúng dân ngoài nớ
một cái tên. Chở một trời quê hương
hèn chi, tửu nhập mà không loạn
nghiêng đôi vai gánh một hồ trường
ta thuộc dân kỳ hồ lang bạt
đất mẹ. Xứ người, mãi miết chơi
mặc khách. cùng đinh, trên chiếu rượu
hào khí bay quanh. Dễ mấy người ?
trong đời có bao lần được gặp
rượu trăm ly, hồ dễ đã say
thì tiếc chi một lần ngã xuống
cùng chia nhau một chén rượu đầy
đêm nay, ta muốn say cùng bạn
chuyện bên ngoài, vất lại đằng sau
rượu mềm môi, tạ lòng bạn quý
ngày mai đâu dễ uống bên nhau

Trong “Chén Rượu Tạ Lòng Bạn Hiền” (bài thơ trên) và trong những bài thơ rượu khác, Phan Xuân Sinh đều có đủ những ưu điểm, Trần Doãn Nho đã nêu ra. Đọc thơ, ta thấy rõ, cái hào khí của nhà thơ tỏa ngay trong lúc đề cao người đối ẩm (ở đây là người bạn thơ của tác giả, Nguyễn Khánh Hòa), và trong cách tự đánh giá phong thái của mình (đoạn 1). Sự bộc trực, nét ngang tàng với chút ít tự đắc về nguồn cội thể hiện ở đoạn hai. Nét chân tình, cởi mở, có ở đoạn ba. Ở các đoạn còn lại, mang đủ những bản sắc trên nhưng được lồng đậm đà nỗi niềm ngậm ngùi, chua xót. Bài thơ hay nằm ở sự diễn đạt tự nhiên, giản dị, tiêu biểu các câu “thối lui…đâu được. Cứ lia chia / rượu vô, điên tiết cứ huênh hoang / hèn chi, tửu nhập mà không loạn / chuyện bên ngoài, vất lại đằng sau…”

Nét ngang tàng rất Quảng Nam của Phan Xuân Sinh, còn nhìn thấy rõ nét trong bài “Uống Rượu Với Người Lính Bắc Phương”:

“hãy rót cho ta thêm cốc nữa
ngồi với bạn hôm nay làm ta hứng chí
chuyện ngày mai có chi đáng kể
dẹp nó đi cho khỏi bận tâm
thằng lính nào mà khong rét lúc ra quân
khi xung trận mà không té đái…”

Đọc thơ rượu của Phan Xuân Sinh đã thú, nếu được ngồi cụng ly với anh chắc còn thú vị hơn. Nghe nói anh hồng hào tốt tướng. Khuôn mặt rạng rỡ phương phi. Cười nói xuề xòa nhưng chừng mực. Một ông chủ tiệm rượu không thể là người nghiện rượu được. Đây không phải là nguyên tắc.

Nhưng đây là điều kiện ắt có và đủ để kinh doanh trong ngành ẩm-nhiều-thực-ít này. Nếu có dịp làm quen, ngồi uống với anh, tôi chắc sẽ bắt chước một nhà thơ, “véo đùa chơi một cái” thử có “rượu bung da thơm ngát chỗ đang…(ngồi) nằm” (thơ LH) hay không.

Thả lòng theo những dòng thơ đến từ sự tưởng tượng, liên tưởng của Phan Xuân Sinh, cũng là một khoái cảm. Anh thường mở cho mình những cuộc gặp gỡ, độc thoại với nhiều nhân vật. Những nhân vật đó gồm có những ai ?
Có bằng hữu:
“cũng quẩn quanh mấy thằng lưu lạc
sớm chiều nghề ngỗng chẳng hơn ai
trong lòng lịm tắt bao chí lớn
đêm về se sắt tiếng thở dài…
bạn cười khinh bạc đời dâu bể
có chút gì như thể dấu lòng
chuyện vợ, chuyện con. Giả lờ quên phắt
tay nâng ly mà nước mắt lưng tròng…”

Có tình phụ:
“… đời chia ta thành từng ngã rẻ
những nhánh sông đâu dễ gặp nhau
mảnh tình vỡ trôi đi tứ tán
nước chảy qua cầu còn đọng vết đau…
vẫn biết tình đi là tình hết
mà sao ta cứ mãi trông tìm…”
Có kẻ khác chiến hào:
người yêu của bạn ở ngoài phương Bắc
giờ nay đang hối hả tránh bom
hay thẫn thờ dõi mắt vào Nam
để chờ người yêu ình trở thành liệt sĩ
rồi cũng sẽ quên, như bao điều suy nghĩ
tình yêu như một thứ điểm trang ?
che đi chút dối lòng…”

Có thế hệ hậu sinh:
“… thời của bọn ta chẳng biết về đâu
chạy lung tung, mặt hãi hùng thất tán
nhìn về núi sông ruột đau như cắt
bài học này xin gửi lại các người”

Những bậc tiền nhân lẫy lừng của Việt Nam hay trong cổ sử Trung Hoa cũng được Phan Xuân Sinh dựng dậy nghe anh giải bày. Ngài Ức Trai Nguyễn Trải (1380-1442), ra đời trong thời biến loạn, ngài đã dùng cái học uyên thâm của mình để giúp vua Lê Lợi hoàn thành nghiệp đế. Tâm huyết trong Bình Ngô Đại Cáo của ngài được trọng dụng. Trái hẳn với thời binh đao của thế hệ Phan Xuân Sinh. Dĩ nhiên nhà thơ không đem cá nhân mình ra so sánh. Nhưng không thể không cho anh những suy tư:

“… giữa thời này, thời mạt vận của văn chương
chẳng đáng giá gì câu thơ, bài phú
bình thiên hạ. Nói lên bằng đầu súng
ngài sống lại ở đây, cũng chỉ bó thân…
đêm nay nằm, ta lại nhớ tới ngài
gối lên nỗi đau của người thất thế”
(Đêm nằm nhớ Ức Trai)

Xa lắc xa lơ, từ thời Đông Châu Liệt Quốc, Ngũ Viên tên là Tử Tư, người nước Sở, đã suy nghĩ đến bạc râu tóc để thoát sự truy sát của vua nước mình. Ông sống lưu vong tại nước Ngô, giúp thái tử Quang của nước này trở thành vua Hạp Lư. Con đường công danh của ông thật rạng rỡ. Trong khi đó cùng hoàn cảnh trốn chạy khỏi quê hương, Phan Xuân Sinh và thế hệ anh lụn bại hơn nhiều. Nhớ về danh sĩ xưa chạnh nghĩ đến thân phận lưu vong dù có chệch choạch, anh cũng so sánh:

“… chí lớn của ngài thiên cổ chi mê
làm rạng danh một thời hoạn lộ
đầu bạc đã trả xong món nợ
còn ta thẹn mặt với cố hương
nghĩ lại mình là đứa cùng đường
làm sao đây với trí cùn lực mỏi…”
(Hầu chuyện cùng Ngũ Tử Tư)

Cái bất lực chua xót của nhà thơ cũng là nỗi niềm xót xa của chúng ta, những người đang lưu lạc trên xứ người, lẫn những người đang mất quê hương ngay trên xứ sở của mình. Những nhân vật trong cổ sử Trung Hoa, có sức hút khá lớn đến một số nhà thơ Việt Nam. Riêng đất Quảng Nam, ngoài Phan Xuân Sinh còn có Hoàng Lộc, Hà Nguyên Dũng…Không hiểu khí phách người xưa có phù trợ hay không, những bài thơ có chút ngông nghênh này, đa số đều có hồn và xuất sắc.

Ngoài Ngũ Tử Tư, Phan Xuân Sình còn làm sống trong chúng ta một tên tuổi trong thời Tam Quốc bên Tàu: Tào Tháo. Nhưng lần này, ngoài chuyện cay đắng so sánh, Phan Xuân Sinh còn có tham vọng “giải oan” cho nhà thơ, nhà chính trị, cũng là một quân phiệt cuối thời Đông Hán:

“ ông quả đúng tổ sư đất Ngụy
lột áo.Cháy râu. Giặc đuổi chạy dài…
cái chạy của ông, sau lập nên nghiệp cả
thất thế sa cơ là chuyện nhất thời…
cái chạy của bọn ta, trùng trùng mù mịt
chuyện áo cơm lo tối mặt phờ râu…
ta kẻ hậu sinh, giở lại pho sách cũ
mà khen ông đúng bậc tài hoa…”
(Giải Oan Cho Tào Tháo)

Những danh sĩ Trung Hoa đứng trong thơ Phan Xuân Sinh còn có thĩ sĩ Thôi Hộ người đời Đường. Thiên tình sử cảm động của nhà thơ này để lại sự tích: khuôn mặt thiếu nữ do đâu được ví với hoa đào.Thi sĩ Tản Đà của chúng ta từng chuyển ngữ bài Đề Đô Thành Nam Trang, là bài thơ Thôi Hộ đã làm tặng người con gái ông gặp tình cờ khi ghé xin nước uống, sinh tình đề thơ, để nảy sinh những tình tiết rất lãng mạn, thơ mộng.

Cửa đây năm ngoái cũng ngày này,
Má phấn, hoa đào ửng đỏ hây.
Má phấn giờ đâu, đâu vắng tá,
Hoa đào còn bỡn gió xuân đây. (TĐ)

Phan Xuân Sinh cũng dựa vào câu chuyện tình này để hoàn tất bài thơ 28 câu của anh:

“…ta muốn làm người xem hoa cỡi ngựa
dạo chơi ngang dọc chốn hồng đào
đọc lại mấy câu thơ Thôi Hộ
lòng bỗng nhiên chợt thấy nao nao
hồng nhan, nghe thất điên bát đảo
một đời ta, chịu không thấu chữ này
mấy thằng bạn làm thơ trái tim bệnh hoạn
nên mãn đời cũng chỉ vùi thây…”
(Xem hoa đào đọc thơ Thôi Hộ – Khi tình đang ru người)

Không diện kiến cụ Tiên Điền Nguyễn Du, nhưng Phan Xuân Sinh đã dành cho nhân vật Thúy Kiều nhiều dòng thơ lục bát:

mười lăm năm cuộc bể dâu
mười lăm năm ấy qua cầu mới hay
giải oan cho cuộc tình nầy
mượn dòng bạc mệnh lưu đày kiếp hoa
bán mình không nổi chuộc cha
khóc người mà cũng khóc ta một đời
(Một đoạn cho Kiều -Đứng dưới trời đổ nát)

cho ta dành cõi thiêng liêng
cho ta gửi chút tình riêng vói người
trải tấm thân khắp muôn nơi
cầm lòng vẫn giữ một lời thủy chung…
…….
khóc người một bậc tài hoa
mười lăm năm đã nhạt nhòa phấn son
khóc ta đôi mắt mỏi mòn
mười lăm năm vẫn một lòng nhớ quê
(Một đoạn khóc Kiều – Khi tình đang ru người)

Bè bạn, người yêu, kẻ cựu thù đến những nhân vật tên tuổi… tất cả hình như đã trở thành những bậc thềm, những nền nhà, để nhà thơ trở về, qùi gối diện kiến với chính mình. Hỏi han, giải bày đã trở thành những lời độc thoại, trái tim nói tấm lòng nghe. Những hoạt cảnh như vậy chẳng chỉ nằm trong những trích dẫn trên, mà còn trang trải mượt mà qua nhiều trang thơ. Xin tạm dừng nét đẹp này ở đây để tìm đến góc cạnh thành công khác trong thơ Phan Xuân Sinh.

Trong bài giới thiệu thi phẩm Đứng Dưới Trời Đỗ Nát, nhà thơ Nguyễn Mạnh Trinh có đoạn:

“… Có nhiều người đã nhận định, nếu là thi sĩ mà nguyên quán là xứ Quảng Nam ngũ phụng tề phi, thì chắc chắn trăm phần trăm sẽ có những bài thơ để trang trải tấm lòng của mình với nơi cố thổ. Luân Hoán, Hoàng Lộc, Thái Tú Hạp… đã có những bài thơ được sáng tác với tấm lòng cùng tột rung động của mình! Phan Xuân Sinh cũng thế…”

Để chứng minh nhận định khá chính xác của “nhiều người”, do tác giả Tạp Ghi Văn Nghệ nhắc trên, xin mời tìm hiểu đôi nét về cội nguồn Phan Xuân Sinh cũng như xem anh đã trải lòng như thế nào với quê cha đất tổ.

Ra đời ngày 02 tháng 01 năm 1948 tại Nại Hiện Đà Nẵng, “ Phan Xuân Sinh, lấy tên thật làm bút hiệu khi làm thơ và viết văn. Ông sinh ra trong một gia đình mô phạm, mồ côi mẹ lúc mới mười một tháng tuổi, sống với thân phụ vừa dạy học vừa nuôi con, và nhờ đùm bọc dạy dỗ của hai bên nội ngoại mà ông đã lớn khôn và vào đời với tâm hồn thuần phác, cởi mở và trung trực…”. (LTT)

Đoạn chữ nghiêng ở trên do nhà văn Lương Thư Trung giới thiệu. Có lẽ chừng ấy đã đủ. Nhưng giàu tò mò, tôi lật tới lật lui cả 3 tập thơ: Chén Rượu Mời Người (in cùng nhà thơ Dư Mỹ, 1996), Đứng Dưới Trời Đổ Nát (2000), Khi Tình Đang Ru Người (2008) và thất vọng. Không thấy Phan Xuân Sinh viết dòng nào về ấu thơ của anh. Buồn tay, tôi ba hoa ba sợi, chưa kịp xin phép anh:

“ra đời vào một đêm mưa
không trăng nhưng gió đẩy đưa ổ nằm
con chim sữa bằng cọng tăm
lâu lâu lại ngõng đầu rồng làm mưa
ra đời vào buổi xế trưa
nắng lòn vách cửa đong đưa nôi vàng
bàn tay, mẹ ướp hương lan
đợi ngày trổ ngát ngàn trang phiêu bồng - HKQ”

Nhà thơ đừng che miệng cười nhé. Thơ… thẩn đâu phải chuyện đùa. Và tôi có đùa đâu. Cũng trên sáu dưới tám. Cũng vần cũng điệu hẳn hoi. Có chăng là nó chẳng ra thơ. Vẫn còn thiếu một hơi người phà vào đó. Tôi hy vọng cái liều mạng trên của tôi sẽ bắt nguồn, tạo hứng cho Phan Xuân Sinh viết về mình bằng thơ nhiều hơn nữa. Tôi chờ đọc ở những tập thơ tiếp theo. Bây giờ đã đến lúc phải ghé vào chùm thơ quê hương trong hai thi phẩm Đứng Dưới Trời Đổ Nát (2000), Khi Tình Đang Ru Người (2008).
Đà Nẵng, quê Phan Xuân Sinh, một thành phố không cần tốn nhiều dòng để giới thiệu. Nhà thơ không cư ngụ tại các quận lớn như Hải Châu, Phước Ninh. Anh ra đời ở Nại Hiên. Dĩ nhiên tôi không thể biết nóc nhà của anh bén rễ chính xác nơi đâu. Nên đành bâng khuâng: Ở Nại Hiên, không hiểu nhà thơ có gần nhà người đẹp Trân Châu không ? Hẳn những lúc đi tìm thi hứng, đã có ngắm qua những Như Thoa, Kim Uyên, Hoàng Bích Quân…

Những kiều nữ hít thở bên Cổ Viện Chàm, cạnh dòng sông Hàn này ngày nay đều có mặt dưới hai quốc kỳ, cờ lá và cờ hoa… Nhưng thôi, hãy trở lại với Nại Hiên. Thật buồn, không thấy gốc cây vông đồng cao lớn cùng khu chợ dưới bóng mát của nó. Những tiếng chim, tiếng gió lẫn tiếng ruồi bay… đâu dễ gì ai cũng biết lắng nghe. Chẳng lẽ tuổi thơ của Phan Xuân Sinh không biết đi lượm nắp ken ? không biết xử dụng ná bắn chim ? Anh chỉ nhắc đến một cái Giếng Bộng đơn độc:

“ ta cùng nhau uống giếng này
hình như giếng cũng mang đầy nhớ thương
‘đầu sông Tương, cuối sông Tương’
em, anh, một mối. Hai đường cách ngăn
chỉ còn anh với vầng trăng
bên thành giếng cũ. Em thành người xưa”
(bài lục bát cho Đà Nẵng)

Con đường Trưng Nữ Vương đâu ? trường Sao Mai đâu ? Ngôi trường này anh đã học, sau 1975 mất tên, bây giờ năm 2009, đã mất hẳn dấu tích, dù những Kiều Trang, Hoàng Nga… vẫn còn đâu đó trong cuộc sống. Đối với những người luôn nhìn thấy Quá Khứ Trước Mặt, bức tranh về Đà Nẵng của anh còn đơn sơ quá. Dù sao cũng xin cảm ơn những nét chấm phá của anh. Có nhiều hình ảnh trong thành phố, chỉ cần gọi tên là đã lượm được cả ngàn vụn kỷ niệm, ví dụ như dốc Cầu Vồng. Con dốc ngày nay cũng đã đi vào dĩ vãng, nhưng kỷ niệm của mỗi người từng đặt chân lên da thịt nó còn hoài. Anh cũng tìm được phần quà cho riêng mình đó thôi:

đạp xe vượt dốc Cầu Vồng
chở em. Áo ướt.lưng cong mệt nghoài
giọng em, thỏ thẻ bên tai
mát lòng, (Như thể nghe ai rót tình)
yên sau. Em muốn quay mình
là anh như thể nhục hình đâm ngang
(bài lục bát cho Đà Nẵng)

Chỉ mới đến Chợ Hàn, anh đã lên Đò Xu rồi ra tuốt Nam Ô, không vui tay lang thang đâu nữa. Lạ, sao anh chọn nơi cho thở vào thơ rất có duyên. Đò Xu với những vườn ổi, với chùa Bà Quảng làm tôi nhớ đến những Hồng, những Phú của một thời. Chúng tôi còn đủ cả, nhưng mỗi người một nơi. Khoảng cách chia xa từ hơn bốn mươi năm rồi. Nhưng hình ảnh, tên gọi lẫn những nụ cười vẫn còn đó, chỉ cần nhắc đến:

“đưa em qua tới Cồn Dầu
con đò không muốn quay đầu. Vì em
tần ngần. Trên bến thân quen
mắt trong mắt đọng ưu phiền, còn mơ
em và anh. Cách đôi bờ
đò xưa còn đó, bây giờ em đâu ?
(bài lục bát cho Đà Nẵng)

Nam Ô với chúng tôi, những người phàm mắt thịt, chỉ nhớ được một chân núi, một đường cong của thiên nhiên cùng sóng và gió. Với riêng anh, nơi trái tim biết yêu và được yêu lần đầu hẳn nhiên phải rất khác:

rừng thưa bên bãi nhấp nhô
nụ hôn đầu gửi Nam Ô, Thuở nào
em như một trận mưa rào
mát lòng đôi chút. Rơi vào lãng quên
“rừng và biển. Anh và em”
còn nhau chỉ để tăng thêm nỗi buồn
(bài lục bát cho Đà Nẵng)

Anh có chút không thật đấy nhé. Trận mưa rào ấy chẳng phải mát lòng đôi chút. Rơi vào lãng quên đâu. Bằng chứng tôi bắt gặp vết thương cũ bỗng dưng ê ẩm/ cây vẫn còn in dấu chân chim (cho người tình phụ), hoặc xót xa hơn:

“ta trở về thăm lại Nam Ô
nơi chốn ấy một lần vấp ngã
bởi em vội bỏ đi hối hả
để lại sau tình gãy nửa chừng
vẫn y nguyên biển và rừng
sóng vẫn vỗ bên thềm đá dựng
không Từ Hải mà ta còn chết đứng
kể từ khi em thả dốc đèo…”
(thăm lại chốn cũ – khi tình đang ru đời)

“Nhiều người đã nhận định” những nhà thơ xứ Quảng thường lót tình trên vạt đất quê mình, coi vậy mà không hẳn đúng. Bởi những tay thơ này, thường vẫn vói qua nhiều vùng đất khác, những nơi đã được đi qua, đã được dừng lại đôi lần. Phan Xuân Sinh cũng vậy, anh có thơ cho Huế, cho Đà Lạt, cho Thủ Đức, cho Sài Gòn… và cho cả những thành phố trên quê hương thứ hai: Boston, New Orleans, Atlanta… “Đất lành chim đậu”, chim hót, chim làm thơ đó là chuyện bình thường. Thơ từ trái tim, quê hương cũng từ trái tim, nên dù chuyển dời ngọc thể đến đâu, đất và tình vẫn sống đời với nhau.

Một nụ tình khác của thi sĩ rất đáng trân trọng, đó là tình bạn. Phan Xuân Sinh đã chứng minh điều này. Gia tài bằng hữu của anh chắc rất phong phú. Sẽ rất tiếc cho những người chưa được quen biết anh. Và mừng cho các bạn đã nhận từ Phan Xuân Sinh, mỗi người bốn nhánh tình: (ghi theo sắp xếp của tác giả) Ngô Thi, Hạ Đình Thao, Kiều Uyên, Trần Trung Đạo, Lê Anh Huy, Đynh Trầm Ca, Vương Trùng Dương, Tường Linh, Luân Hoán, Hoàng Lộc, Đức Phổ, Lê Văn Trung, Lâm Chương, Thành Tôn, Uyên Hà, Trần Nghi Hoàng,Nguyễn Trọng Khôi, Trương Được, Trần Công Chín.
Mời đọc vài đoạn:

Gửi Hạ Đành Thao
“mười mấy tuổi tập làm thi sĩ
tau với mày dạo khắp thế gian
thơ chẳng ra chi, ngông nghênh hết biết
nhìn lại nhau còn một chút hơi tàn

Gửi Kiều Uyên
trong thời chiến, ghé qua Bàn Thạch
tau nhớ tới mầy ray rức không thôi
cái thuở làm năm ba câu thơ dỏm
mà sao mình thấy sướng ngất trời

Gửi Trần Trung Đạo
bạn đúng là một chân thi sĩ
cứ thao thức về chuyện con người
chẳng bao giờ lo đổi vàng đổi bạc
chỉ biết làm sao đổi được tiếng cười

Gửi Lâm Chương
đứng trên đối thả hồn nhớ gió
nên lùa bầy thú dữ gặm cỏ non
cỏ sạch láng, thú ông gặm đá
nên chỉ răng trẹo trạo chẳng còn

Gửi Trương Được (1)
khi ngọn gió thổi tung đời từng mảnh
mình gặp nhau giữa lúc loạn ly
dân khoa học chôn chân phòng “lab”
không ngờ cuối đời, nói chuyện Đường thi
(1) Lại Quảng Nam

Cả một đám được tặng thơ sao toàn “đực rựa” ? Phan Xuân Sinh có “trọng nam khinh nữ” không ? Chắc là không. Bạn nữ của anh chắc không thiếu nhưng chắc lấn cấn gì đó thôi. Không chừng anh run tay không viết thành lời dù những nhánh tình dành cho các vị anh thư anh vẫn nuôi mãi trong lòng.

Dù cố gắng đừng để rơi những nét đẹp trong thơ Phan Xuân Sinh, tôi cũng đã không giữ được điều tự dặn mình này. Một vài cảm nhận khi đọc một tác phẩm, được thể hiện bằng văn bản, cần phải ngắn gọn, nêu đúng những xuất sắc cũng như những cái còn chưa ưng ý. Ba hoa, dông dài, làm mất thời gian của người đọc vốn là điều tối kỵ. Đấy là những cơ bản dành riêng cho những người làm công tác văn học nghệ thuật. Tôi nằm ngoài hàng ngũ đáng kính trọng ấy. Tôi là một bạn đọc yêu chữ nghĩa, cứ cho như là học đòi. Nhưng ai cấm những lời bày tỏ chân thành, dù vụng về, lẩn thẩn và lộn xộn. Viết ra được những gì mình cảm nhận sau khi đọc là điều rất thú.

Tại sao phải cõng trên lưng những tư tưởng, những thước đo cao xa để đến với một tác phẩm. Phô trương kiến thức để chứng minh cho những nhận định vốn có chút vay mượn, có vẻ bề thế. Nhưng chắc gì đã thuyết phục.
Ngoài việc không có khả năng và can đảm làm dáng, tôi đọc thơ Phan Xuân Sinh vì tìm thấy ở anh có những gần kề với tâm hồn mình. Ở Phan Xuân Sinh, nhìn chung là hào sảng, khẩu khí, chân tình. Men rượu bàng bạt trong bầu trời thơ anh. Tôi tin chắc thiếu rượu, Phan Xuân Sinh sẽ không là một Phan Xuân Sinh thi sĩ, dù anh không nghiện, không ghiền. Người bạn đường này của anh, như một điền khuyết chỗ thiếu hụt bất ngờ trên cơ thể anh vì chiến cuộc.

Tôi xin xác nhận lại: Thơ rượu của Phan Xuân Sinh rất xuất sắc. Gần đây tại quê nhà, những người làm văn học có cho in hai tuyển tập về rượu: Tuyển Tập 36 bài thơ Rượu và … tên gì nữa, chợt quên mất. Không rõ, những người thực hiện hai tuyển tập trên, có biết còn có một thi sĩ rất giàu thơ rượu. Sẽ thiếu sót, thiệt thòi cho bạn đọc nếu những tập thơ như vậy tiếp tục ra đời mà thiếu vắng tên tuổi Phan Xuân Sinh.

Hà Khánh Quân
9g 42’ ngày 07-9-2009


Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn Gửi email Địa chỉ AIM
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng » Thơ Văn Phan Xuân Sinh Thời gian được tính theo giờ EST (U.S./Canada)
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn


Powered by SaoMaiDaNang © Nho'm SaoMai DaNang
Designed for SaoMaiDanang - Nam cuoi cung cua truong SAO MAI