Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng
Đăng Nhập Đăng ký Trợ giúp Thành viên Tìm kiếm Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng

Chất Giọng Huế Có Mấy Sắc Thái, Một Quan Niệ

 
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng » Văn Hoá - Khoa Học & Kỹ Thuật
Xem chủ đề cũ hơn :: Xem chủ đề mới hơn  
Tác giả Thông điệp
Gio
HS SaoMai


Ngày tham gia: 10 6 2008
Số bài: 326

Bài gửiGửi: Hai 11 11, 2013 8:19 am    Tiêu đề: Chất Giọng Huế Có Mấy Sắc Thái, Một Quan Niệ Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

CHẤT GIỌNG HUẾ CÓ MẤY SẮC THÁI, MỘT QUAN NIỆM TRUYỀN THỐNG

Tiếng nói – một trong những “mã khoá chính” – mở ra sắc thái văn hoá của cả một vùng đất quê hương. Đó là bằng chứng cho sự tồn tại cố hữu nhất.

Sự tồn tại đã-đang-sẽ để lại mãi dấu ấn đặc biệt khó thể phai nhoà theo năm tháng.

Tiếng nói lưu giữ lý lịch vùng miền qua “chất giọng”. Nó như một gia sản chung được ban tặng ngay từ thuở mới lọt lòng. Một cách sớm nhất, từ lời ru của mẹ mà tiếng nói được nghe, được học, được thẩm thấu vào tận đáy tâm hồn.

Mỗi đứa con lớn lên, khi vào đời vẫn cưu mang tiếng mẹ đẻ trong suốt cuộc hành trình làm người, dù bất cứ ở đâu. Cưu mang ấy là cưu mang âm vang cụ nhể nhất về nguồn cội của mình. Tiếng nói, tự nhiên mang một phần ý nghĩa thiêng liêng tuyệt đối.

Là thực thể vô cùng sinh động, tiếng nói tồn tại “đời sống” riêng của chính nó. Phần “gốc” thuộc về chất giọng phát âm. Phần “ngọn” là cấu trúc, ngôn từ và ngữ nghĩa…Phần “ngọn” biến chuyển qua mỗi một thời kỳ, thời đại khác nhau. Có thể còn có tính bổ túc, tăng trưởng hoặc ngay cả bị lãng quên, đào thải do không còn thông dụng. Song, chất giọng ngược lại khó đổi thay theo năm tháng…Là thứ tiếng vọng cụ thể nhất, gần gũi và lặng lẽ tồn tại ngay trong cả nội tâm, khi ta thường xuyên đối thoại với tâm tư. Chất giọng vì thế là linh hồn, phần bất tử trong tiếng nói.

Tồn tại cả ý nghĩa “đất nước” – đầy tế nhị – ngay trong bản thân chất giọng một xứ miền. Vâng, người ta giải thích, nước uống với các phẩm chất riêng một vùng đất, thực phẩm chính, lúa gạo và thổ nhưỡng đặc thù vùng đất ấy sinh ra… Tất cả khiến chất giọng vùng miền chịu ảnh hưởng một cách lâu dài, rộng lớn. Chính vì thế, có thể một con sông lớn cho tới cái “Bàu” nhỏ, hoặc một con “Hói”, thậm chí vùng “Đầm phá” mênh mông chẳng hạn…Lắm khi gắn liền với một chất giọng riêng, một thổ âm, một thổ ngữ với biết bao đặc thù, kỳ diệu…

Nói đến tiếng Huế sẽ thiếu sót lớn khi chưa đề cập tới phần “gốc” mà ở đây, tôi gọi phần “chất giọng”. Đấy quả là những đặc sản âm vang từ bao đời được tự nhiên định vị để gắn liền với vùng địa lý trọng tâm. Những vùng địa lý cá thể đã góp phần cùng làm nên một xứ Huế, nói chung.

Đơn giản và học theo cách người xưa – tổ tiên của người Huế truyền thống – chúng ta vẫn có phương pháp định vị về thành phần các chất giọng xứ Huế. Một phương pháp rất đáng lưu ý, có tính phổ quát lâu dài và tất yếu rõ rệt :

1/ Tiếng Huế giọng Dinh : Trước đây, nhiều thế hệ (bây giờ đã là cha ông của chúng ta) thì “Dinh” mang rất nhiều ý nghĩa. Không quá đơn giản như ngày nay, một em bé miền quê thuộc các vùng Thừa Thiên Huế bây giờ, bất cứ lúc nào vẫn có thể được “đi Huế”. Thời trước khác hẳn, “đi Dinh” quả thật hết sức đặc biệt, đến nỗi người ta luôn tỏ bày một cách đầy trân trọng, khác thường…

Lúc ấy, “đi Dinh” tương đương với sự cố lớn, đầy vinh hạnh trong đời một em bé miền quê – thậm chí một người lớn – đấy là điều cha ông chúng ta từng cho biết. Hơn cả ý nghĩa của một thành phố hoa lệ theo ngữ nghĩa ngày nay, từ “Dinh” lúc ấy còn bao hàm dinh thự, thủ phủ, nơi đỉnh cao của quyền lực, sự tập trung về văn hoá văn minh và kinh tế…Mọi mặt sinh hoạt xã hội quy tụ một nơi nầy. Hơn thế, đấy còn ám chỉ cố đô một thời vàng son ngự trị.

Thành ra, “tiếng Dinh” cũng là tiếng Huế nhưng để dành riêng, nhằm chỉ định cho chất giọng của người Huế – ở và lớn lên – ngay trong lòng đô thị ấy. Tiếng Dinh hiểu đơn giản, là thứ tiếng Huế (nói chung) chỉ thông dụng ở thành phố nầy làm chính. Có thể sẽ rõ ràng hơn, khi ta nói rằng đấy là thứ tiếng Huế với giọng Dinh.

Giọng Dinh nhẹ nhàng do các “vĩ thanh” – âm đuôi, ở chữ cuối cùng trong câu nói – chỉ có độ kéo dài chừng mực. Nó không co lại và cứng dần như khi đi dần về khuynh hướng Bắc Thừa Thiên, tiếp giáp Quảng Trị…

Mặt khác, giọng Dinh cũng không có lắm vĩ thanh dài, mềm mại như khi đi dần xuống Nam Thừa Thiên, giao lưu xứ Quảng sông Hàn. Song khi cần phân biệt hơn nữa, ta sẽ nhận ra rằng, giọng Dinh có hơi thiên về phía Quảng Trị một ít, so cùng ảnh hưởng không rõ ràng từ phía Nam đưa đến.

2/ Tiếng Huế giọng Hạ Bạn : Tổ tiên người Huế gọi những người lao động, làm công (nhất là về nông nghiệp) ở các miền khác trong cùng tỉnh là “bạn”. Hạ bạn, để nói chung những miền về phía biển.

Nơi ấy, do việc đồng áng có hoàn cảnh, thổ nhưỡng dị biệt nên các vụ mùa thường khác thời điểm so với vùng trung du, xa biển…Chữ “hạ bạn” của bình dân đơn giản, vừa Hán vừa nôm. Nó chỉ các địa phương cận biển Thừa Thiên Huế. Mặt khác, vừa để gọi chung những đồng nghiệp nơi nầy.

“Về hạ bạn mần ăn” cũng có nghĩa tranh thủ sự khác biệt, không được thống nhất giữa thời vụ miền trung du và vùng cận biển để đi về miệt ấy làm thuê, cắt mướn. Có câu hò, bày tỏ tình cảm của người hạ bạn khi những kẻ làm thuê cắt mướn kia kiếu biệt ra về :

“Mãn mùa tót rã, rơm khô

“Bạn về quê bạn, biết nơi mô mà tìm”.

Vì sao nông dân trung du có khi phải tìm về hạ bạn để nương nhờ khi cơ cảnh ? Đơn giản, vùng biển còn có nghề cá, không như trung du chỉ đơn thuần nông nghiệp.Nắng hạn hay mưa lụt không gây ảnh hưởng trầm trọng như ở vùng trung du.Lắm lúc để kiếm lợi nhiều hơn từ nghề cá, người hạ bạn sẵn sàng chấp nhận thuê mướn.Họ sẽ được rãnh rang phần đồng áng.

Giọng Hạ Bạn thường có những vĩ thanh trĩu xuống khác thường. Nhất là những từ có thanh bổng, mang “dấu sắc”…Những từ nầy đều biến thành “dấu nặng” nhiều hơn là “dấu sắc”. Ví như, khi nói mắm ruốc thì họ phát âm thành mặm ruộc nhiều hơn.

Giọng Hạ Bạn để so sánh, thì trầm thấp hơn cách phát âm của chất giọng Dinh. Đại đa số các miền biển Thừa Thiên, nhất là Trung Thừa Thiên đều có chất giọng đặc biệt – vĩ thanh trầm – như thế.

3/ Tiếng Huế giọng Thượng Bạn : Ngược vùng hạ bạn là thượng bạn.

Nói chung các vùng cận sơn hoặc bán sơn địa Thừa Thiên Huế theo cách gọi bình dân.Thượng bạn còn khó khăn hơn cả trung du. Nơi ấy địa hình hiểm trở, thổ nhưỡng khô khan. Song khi mất mùa hoặc đói kém thì đã có rừng xanh nâng đỡ phần nào. Thượng bạn không như hạ bạn, nơi đây khó làm thuê cắt mướn ngoại trừ “lên thượng bạn” là để biết thêm nghề đốt than độ nhật. Nghề làm thêm khốn khổ nhất nhưng mang tính truyền thống của con người thượng bạn. Câu hò để nói lên tình yêu cô gái trung du trước một chàng trai thượng bạn quá độ cơ hàn :

“Dẫu chàng đóng khố, đốt than “

“Đã thương thì em chịu lên ngàn, có đôi.”

Chất giọng Thượng Bạn, nói chung có điểm nghịch với chất giọng ở miền Hạ Bạn. Thay vì các phần vĩ thanh – âm cuối, chữ cuối câu – đột ngột hạ xuống thấp so với tự nhiên, thì bây giờ chất giọng Thượng Bạn lại đột ngột được nâng cao, rất bổng. Ngoài ra, vĩ thanh “bổng” ấy rất thường được “nhấn” y như một “trọng âm” cuối vần và ngay cả cuối câu.Với chất giọng nầy, câu nói của người thượng bạn gần như một tiếng hô thán, gây ấn tượng thân tình nhiều hơn, sôi nổi thêm cho ý nghĩa lời nói.

4/ Tiếng Huế giọng Mỹ Lợi : Có thể đại biểu cho chất giọng phía Nam Thừa Thiên Huế một cách đích thực. Địa bàn phía Nam rất gần Quảng Nam Đà Nẳng.Vùng biển có núi quây quanh ăn sâu vào đất liền như một trong những địa hình độc đáo, hiếm có chỗ thứ hai tương tự nơi nầy. Tất cả những tham số ấy cho ta giải thích vì sao ? Cùng là vùng cận biển Thừa Thiên Huế như nhau…Thế nhưng chất giọng có khi vẫn khác xa đến thế.

Chất giọng Mỹ Lợi nói chung, được tổ tiên người Huế ấn định theo một sắc thái riêng, gọi là giọng Huế Nam.Ngược lại, đi về Bắc Thừa Thiên không có đặc trưng đối xứng. Chưa từng nghe các vị tiền bối đề cập đến một chất giọng “Huế Bắc” nào. Có thể về phương diện ngữ nghĩa, ngôn từ hoặc cấu trúc văn phạm vẫn tồn tại tình trạng “đối xứng”(?).Song với vấn đề đang bàn – chất giọng – khó có thêm một đặc trưng “Huế Bắc”.

5/ Tiếng Huế giọng Hàng Huyện : Chỉ chung cho những vùng trung du Thừa Thiên Huế, hoặc ngoại ô xứ Huế bây giờ…Người xưa không hề sử dụng từ “trung bạn” ở đây mà gọi “hàng tổng, hàng huyện” theo tập quán lâu ngày. Một cách đơn giản – và trân trọng – để chỉ những làng quê chung quanh thành phố Huế…

Cách phát âm chất giọng nầy tuy có tế nhị khác nhau, song những dị biệt không đặc trưng như các chất giọng Huế-biểu-mẫu đã liệt kê. Lẽ ấy, vẫn tựu trung vào một “chất giọng” riêng. Tiếng Huế giọng Hàng Huyện hoặc là tiếng Huế giọng Làng, cùng một nghĩa như nhau.

Như vậy, chừng 5 loại chất giọng chính trong góp phần làm nên thứ tiếng Huế, nói chung. Song, chất giọng Dinh vẫn là thành tố tiêu biểu nhất. Nó xứng đáng đại diện cho tất cả, khi đi sâu vào các giá trị tinh thần nổi bật, đặc sắc nhất mà tiếng Huế sở hữu. Vâng, một cách thiết thực để trả lời cho câu hỏi :

Khi Bùi Giáng viết thành thơ, ca ngợi một xứ sở hết sức gần gũi, cụ thể. Điều mà thi ca của ông – phần nhiều chỉ thấp thoáng – lướt qua với biết bao ảnh tượng xứ miền… Từ trời tây hùng vĩ cho tới đông phương đầy khói sương man mác. Ông đã viết riêng cho xứ Huế những gì :

“Dạ, thưa xứ Huế bây giờ “

“Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương “

Phải chăng ? Ông muốn nói, qua hai tiếng “dạ, thưa” thì ấn tượng Huế – đã vĩnh cửu – sánh ngang dòng Hương giang, núi Ngự. Với Bùi Thi sĩ, thì Huế dẫu tồn tại cùng núi ấy sông kia, đừng quên đã gắn liền chất giọng…

Quả thực khó còn ngợi ca nào hơn thế. Ngợi ca chất giọng Huế. Nhưng ta tự hỏi, tại sao và ở mặt nào ? Chất giọng ấy đích thực khiến người hết sức nhạy cảm như Bùi Giáng đã viết nên lời trân trọng…

Vâng, về mặt tinh thần, người nói chất giọng Dinh – đại đa số – theo lối sống thanh nhàn nơi u tịch vườn cây, đầy khí độ ôn hoà, nhẹ nhàng của phong lưu kẻ sĩ. Một thứ chất giọng xem ra rất ít chịu ảnh hưởng từ oai nghi của giai cấp quyền lực từng lâu dài ngự trị ở nơi đây. Chất giọng nhỏ, từ tốn nhưng không hề cho cảm giác vuốt ve, nựng nịu. Trước kẻ oai quyền, đấy là thông điệp vừa đủ để nhận biết người nói không chuộng vũ phu mà là hạng quen đọc sách, suy tư. Với họ, không phải “khẩu phục” mà “tâm phục” mới là điều đáng kể trong đời. Nói cách khác, họ trân trọng học thuật nhiều hơn “thủ thuật”. Cũng chất giọng ấy, song trước những kẻ bình dân lao động – ngược lại – thường đem đến cảm giác gần gũi và thanh thản, không khiến ai nghi ngại, âu lo vì cảnh giác đối phó qua lời ăn tiếng nói. Một chất giọng rất bình thường, không lên cao xuống thấp, ít nương tựa vào các “thủ thuật phát âm” nâng cao hiệu ứng tâm lý người nghe theo ý đồ ngoại tại. Hiểu thế, ta có thể cảm thông nhiều hơn cho các nhà làm phim “lồng tiếng Huế”. Họ không tránh khỏi lúng túng phần nào với chất giọng tế nhị kia do những đặc thù truyền thống.

Vâng, giọng Dinh không hề làm ta liên tưởng tới sự nổi trội tức khắc của một nhân vật trước đám đông qua độ vang và “âm lượng” phát ra. Có thể điều ngược lại được dành cho người Huế – giọng Dinh – khiến họ nổi tiếng thâm trầm, ít nói. Đôi khi, chính sự im lặng cộng hưởng với chiều sâu văn hoá nơi đây tạo thành một phô diễn sâu sắc. Có thể một câu nói nhưng không nhất thiết cần mở miệng, phát ngôn. Im lặng tư tưởng như một “hội chứng chính tông rất Huế”, không thể nào nhầm lẫn. “Tri giả bất ngôn” biết nhiều, nói ít. Điều khác xa với “biết ít, nói nhiều”.

Thực ra Huế, từ xưa cho tới bây giờ vẫn là một trong những trung tâm đào tạo giáo dục cho cả nước. Biết bao nhân sĩ bốn phương xuất thân đến bái sư, thụ giáo nơi nầy. Sự sống của những người Huế nói chất giọng Dinh, đa số vẫn thường xuyên gắn liền với sách vở, vườn xanh. Họ an bần bên trầm mặc non bộ, với sen mặt hồ lãng đãng ngày sương…

Tiếng Huế, qua chất giọng nầy – do thế – hình như rất giàu tính cách bình thản. Sự bình thản từ trầm lắng tư tưởng, khác xa sự bình thản của sỏi đá vô tri. Hơn ai hết, qua quá nhiều chuyển biến lịch sử đau thương mất mát, người Huế hiểu tận tường sự khác nhau giữa bình thản và thanh thản. Để khả dĩ hiểu tâm hồn Huế, để chiêm nghiệm đủ nhẫn nại và sức chịu đựng kỳ lạ ở nơi nầy, trước nhất đừng bao giờ hiểu nhầm hai nghĩa ấy…Sự bình thản – bên ngoài – của người Huế, xứ Huế chưa hề đủ để đánh giá mức độ thanh thản – ẩn bên trong – con người, xứ sở ấy.

Một chất giọng cứ tưởng như chẳng lấy gì làm sôi nổi giữa cuộc đời. Không nhanh nhẩu hoặc xuề xoà, chẳng tuỳ tiện bốc đồng. Rõ ràng thứ chất giọng ấy xa cách với gợi tưởng oai nghi, không nhằm để lại một ấn tượng chế ngự nào lên người đang lắng nghe tiếng Huế. Rất có thể, đấy lại là một trong những nét đặc sắc khiến chất giọng Huế, tiên quyết đã bao hàm yếu tố văn hoá thể hiện qua cung cách : Lịch sự, khiêm nhường khi giao tế ngôn ngữ.

Vâng, một chất giọng không ấn tượng đua tranh, không vồn vã nhanh nhẹn đủ để đáp ứng khuynh hướng kinh tế vốn vô cùng hoạt khẩu. Mặt khác, chất giọng ấy cũng không bộc lộ thứ uy vệ “ăn to, nói nậy” áp đảo người đối diện. Vì thế, chất giọng Huế phải chăng đã tự khẳng định mình ở đâu trong ba phạm trù văn hoá, quyền uy và kinh tế ?

( ST )



_________________
Phận làm trai gõ phím bình thiên hạ.
Chí anh hùng click chuột định giang sơn.
Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
xecura
HS SaoMai


Ngày tham gia: 09 6 2008
Số bài: 212

Bài gửiGửi: Hai 11 11, 2013 12:27 pm    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Có một nhà nghiên cứu nhân chủng học người Nhật đi tìm nguồn gốc tổ tiên của dân tộc mình.

Ông ta đã đi khắp thế giới để tìm kiếm nhưng vô vọng. Cuối cùng, ông trở về châu Á và đặt chân đến Việt Nam. Đến ga Huế, tình cờ ông nghe được 2 người dân địa phương trò chuyện với nhau:

- Mi đi ga ni?

- Ừ, tau đi ga ni. Mi đi ga mô?

- Ga tê. Tau đi ga tê.

- Ga tê ga chi?

- Ga Lăng Cô tề.

- Răng đông như ri?

- Ri mà đông chi!

- Mi ra ga mô?

- Ra ga Nam Ô.

- Khi mô mi đi?

- Chừ chứ khi mô.

- Mi lo đi đi.

- Ừ, tau đi nghe mi!

Nhận ra cách phát âm ngôn ngữ của người dân địa phương ở đây không khác gì tiếng Nhật ngày nay, nhà nghiên cứu người Nhật đã mừng rỡ reo lên:

- A! Đây chính là tổ tiên của người Nhật!


Vo Tay Vo Tay


Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
CaHat
Moderator
Moderator


Ngày tham gia: 09 6 2008
Số bài: 1970

Bài gửiGửi: Tư 11 13, 2013 4:16 am    Tiêu đề: Trả lời với trích dẫn nội dung bài viết này

Tiếng Huế : Tập 1.2,3

Đi đâu thi` nói “đi mô”
“O nớ” ám chỉ “Cái Cô” chung trường
“Ốt dột” khi tui nói thương
Có nghĩa “mắc cỡ” má vương nụ hồng.
“Khôn” là đồng nghĩa với không
Chẳng muốn lấy chồng, “khôn muốn lấy dôn”
“Đoản hậu” là “Ác” en ni
Tui đã … im lặng cứ đi theo hoài
Nhà tui còn khoảng đường dài
Có chi noái nấy, ngày mai hết rồi
Trên cao thì nói “trên côi”
“Đi rượng” là lúc sóng đôi như chừ
“Phủ phê” là lúc thặng dư
Như là tình cảm “đã nư”, no đầy
“Như ri” có nghĩa như vầy
… Mô Tê Răng Rứa, em quây … mòng mòng
======>=====>=====>=======>======


“Ở nể” đồng nghĩa ở không
Trai hông lí dzợ., không chồng “ế dôn”
Ngu ngu thì nói “”khôn khun”
Dại dại mô tả “đù đù” mặt ra
Còn trẻ thì nói chưa “tra”
Tới tuổi già già khú đế là “ôn”
Có cô thiếu nữ lấy “dôn”
Lấy được ông chồng thăng chức “mụ o”
“Răng chừ” đồng nghĩa “”khi mô”
“Khi mô” có nghĩa khi nào đó thôi
“Khi mô” có cặp có đôi
“Răng chừ” hết cảnh tuổi đời bơ vơ
Đơn côi “cái trốt” dật dờ
Là ôm đầu bạc “”cà ngơ” một mình
Lặng yên thì nói “mần thinh”.
Để nghe len lén duyên tình giăng tơ.
“Mua lửa” thì thật phải lo
Vì là mua chịu ai cho “lửa” hoài
“Mắc lửa” là thiếu nợ dài
“Lửa” chi không thiếu, chẳng phai “lửa tình”
“Sáng mơi” là lúc bình minh
Của ngày kế tiếp, nong tình đem phơi
“Bữa tê” em hẹn lại chơi
Quên bẵng cái việc em mời bữa kia
“Bữa tề” mang lịch ra chia
“Bữa tể” là trước bữa kia hai ngày
“Bữa ni” là bữa hôm nay
Là lúc đương nói hàng hai đây nì
“Mần chi” ai hỏi làm chi
Em muốn làm gi`, “răng hoải mần chi?”
Thế này thì nói “ri nì”
“Rứa tề”, thế đó mần chi đây hè?
Cái cây thì noái cái “que”
Còn ở trước hè lại nói cái “cươi”
Cái “ôn” bản mặt tươi tươi
Ưa đi tán bậy là người “vô duyên”
======>=====>=====>=======>=======>


Lấy chồng răng gọi mụ o ?
Anh trai lấy vợ, mình thành mụ o
mụ o hiền hậu khỏi lo
mụ o nhiều chuyện là mụ o “dọn” mồm
Tối qua thi` noái “khi hôm”
Hoàng hôn: “Chạng vạng, nghe run quá trời
Sớm mơi mang “chủi xuốt cươi”
Sài Gòn nghe thấy thì cười bò lăn
Lỡ ưng rồi, biết mần răng !
Cái giọng trọ trẹ…..cũng muốn ăn chung một nồi
Con gái chưa noái đã cười
Bị người ta noái là người vô duyên.
Đọc thơ Cai, thấy đã ghiền
Huế ơi nhớ quá, muốn bay liền ra ngay…



Tiếng Huế không phải chỉ đơn giản tê mô răng rứa như thỉnh thoảng vẫn xuất hiện trong thơ, nhạc và văn xuôi như những nét chấm phá rất dễ thương để nói về người và xứ Huế; mà nhức đầu, phức tạp, nhiêu khê, đa dạng và phong phú hơn nhiều . Tùy vào từng địa phương của Huế, cách phát âm có chỗ nặng nơi nhẹ; lúc thanh tao khi khó hiểu .
Xin được đơn cử một câu rất Huế, một tâm sự kín đáo giữa hai o đang tuổi lấy chồng: “Tau noái với mi ri nì, ien còn ở dôn, rứa mà bữa tê tề, ien chộ tau phơi ló ngoài cươi, ien kiêu tau vô, bồn tau lên chờn, cái ba . . . ien đẩn . Mi quai chướng khôn ?”
Sở dĩ tâm sự kín đáo vì đây là chuyện riêng của hai người, nói bằng thổ ngữ, nhưng ý nghĩa thì như vầy: “Tao nói với mày như vầy, ảnh còn ở rể, vậy mà hôm kia kìa, tao đang phơi lúa ngoài sân, ảnh kêu tao vào, bồng tao lên giường, rồi ảnh . . . Mày coi có kỳ không ?” .

Chữ đẩn, ngoài ý nghĩa một trong bốn cái nhất của đời người trên còn có nghĩa như ăn: “Đẩn cho bưa rồi đi nghể” . Ăn cho no rồi đi ngắm gái . Đẩn cũng có nghĩa là đánh đòn: “Đẩn cho hắn một chặp !”(Đục cho hắn một hồi!) .

Chữ đẩn còn được phong dao Huế ghi lại:
Được mùa thì chê cơm hẩm
Mất mùa thì đẩn cơm thiu
Xin được thêm một câu ngăn ngắn gần như rặt thổ ngữ của Huế mà, nếu không có . . . thông dịch viên gốc Huế hoặc Huế rặt, e rằng khó mà . . đã thông cho được:
“Thưa cụ mự, bọ tui vô rú rút mây về đươn trẹt, bọ tui chộ con cọt, rứa mà nỏ biết ra răng, con cọt lủi, lủi năng lắm, bọ tui mờng rứa thê ! Chừ mạ tui cúng con gà, cụ mự qua chút chò bui .”

(Thưa cậu mợ, bố con vào rừng rút mây về đan rá (hoặc nia), bố con thấy con cọp, vậy mà chẳng biết sao; con cọp chạy trốn, chạy lẹ lắm; bố con mừng quá . Giờ mẹ con đang cúng con gà, cậu mợ qua chút xíu cho vui) Khó hiểu chưa ? !
Thổ ngữ ở Huế thì nhiều lắm và cũng lạ lắm, và vì tiêu đề của bài này là lan man về những thổ ngữ đó, nên xin được nhẩn nha tìm lại chút ít những gì đã mất và ôn lại những gì đang còn xài .

Vì trang báo có hạn, không thể giải thích từng chữ một, nên trong bài này, xin được ghép thổ ngữ thành từng câu, từng nhóm thổ ngữ, vừa đỡ nhàm chán lại ra câu ra kéo, có đầu có đuôi hơn: “Đồ cái mặt trỏm lơ mà đòi rượn đực!” (Thứ mặt mày hốc hác mà đòi hóng trai) Độc chưa ?
O mô mà lỡ mang cái nhãn không cầu chứng tại tòa này chắc phải ở giá hoặc phải chọn kiếp . . . tha hương may ra mới có được tấm chồng .

Chữ rượn gần đồng nghĩa với câu con ngựa Thượng Tứ, câu này cũng độc không kém . Thượng Tứ là tên gọi của cửa Đông Nam, bên trong cửa này có Viện Thượng Kỵ gồm hai vệ Khinh kỵ vệ và Phi kỵ vệ chuyên nuôi dạy ngựa cho triều đình Huế . Vì thế gọi ngựa Thượng Tứ có nghĩa bóng bảy xa xôi rằng con đó nó ngựa lắm, nó lắm, nhưng thâm thuý hơn nhiều
“Mệ cứ thộn ló vô lu, còn lưa, tui này lại !” (Bà cứ dồn lúa vô khạp (cho đầy), còn dư ra, con mua lại) .

Chữ lưa cũng còn có nghĩa là còn đó như trong hai câu trong bài ca dao Huế: Cây đa bến cộ (cũ) còn lưa (còn đó)
Con đò đã khác năm xưa tê rồi

Này lại (mua lại); tiếng này thường chỉ dùng nơi xóm giềng, thân cận; tương đương với chữ nhường lại, chia lại, mua lại . Chứ không dùng ở chợ búa hoặc nơi mua bán um sùm Đập chắc lỗ đầu, vại máu! (Đánh nhau bể đầu, toé máu!)

Thương bọ mạ để mô ? Để côi trốt ! Chắc chúng ta cũng thường hay hỏi lũ con lúc chúng vừa tập nói, vừa biết tỏ tình thương đối với cha mẹ, câu này có nghĩa: “Thương bố mẹ để đâu ? Để trên đầu!” Rồi đưa ngón tay chỉ chỉ, miệng cười cười, nghe hoài không biết chán

Tra trắn rứa mà còn ở lỗ ! (Chững chạc, già đầu vậy mà còn cởi truồng) . Ở lỗ cũng xuất hiện trong câu phương ngôn “ăn lông ở lỗ” hoặc “con gái Nam Phổ, ở lỗ trèo cau!”

Lên côi độn mà coi (Lên trên đồi mà xem .) Chữ coi về sau này đã phổ biến đến nhiều địa phương khác .
Mự đừng có làm đày ! (Mợ đừng có lắm lời, thày lay) . Riêng chữ cụ mự thường là dùng cho cậu mợ . Người Huế ít dùng chữ cụ để chỉ người già vì đã có chữ ôn hay ông . Điển hình như cụ Phan Bội Châu với chuỗi ngày “an trí ” ở Huế, dân Huế đã có tên gọi ông già Bến Ngự, hoặc trong ca dao Huế, khi nói đến cụ Phan:
Chiều chiều ông Ngự ra câu
Cái ve cái chén cái bầu sau lưng

Chộ chưa ? Nỏ chộ ! (Thấy chưa ? Không thấy !) Nỏ là lối phủ nhận gọn gàng pha chút giận hờn, chanh cốm như chả biết, chả ăn, chả thèm vào ! Hắn mô rồi ? Nỏ biết ! Chữ nỏ biết ở đây pha chút, chút xíu thôi sự phủi tay về cái chuyện hắn đang ở đâu ! Tục ngữ Huế: Có vỏ mà nỏ có ruột .

Khóc lảy đảy, không biết ốt dột ! (Khóc ngon khóc lành, không biết xấu hổ!) .

En dòm tui, tui dị òm ! (Anh ấy nhìn tôi, tôi thẹn quá !) Chữ òm người Huế vẫn thường dùng để bổ túc cho cái phủ định của mình: Ngon không ? Dở òm !

O nớ răng mà không biết hổ ngươi ! (Cô đó sao mà không biết mắc cỡ !) Hổ ngươi cũng là tên của cây trinh nữ, cây mắc cỡ . Cũng như xấu hổ, thẹn, mắc cỡ thì ốt dột, dị và hổ ngươi có nghĩa khác nhau tuy chút ít nhưng tinh tế, nhẹ nhàng

Chiều hắn cho gắt, hắn được lờn !: Chiều nó cho lắm vào, nó làm tới . Mời ôn mệ thời cơm: Mời ông bà dùng cơm .

Mệ tra rồi mệ chướng: Bà ấy già nên sinh tật . Chữ chướng, người Huế cũng thường dùng để chỉ mấy đấng nhóc tì khóc nhè, bướng bỉnh hoặc các vị có lối nói, cách hành xử ngang như cua .

Ăn bụ cua cho hết đái mế: Ăn vú cua cho hết đái dầm . Chữ bụ cũng dành cho người và các loài có vú khác . Bụ mạ là vú mẹ, bọp bụ là bóp vú .

Bữa ni răng tau buồn chi lạ, buồn dễ sợ luôn ! (Sao hôm nay tao buồn quá, buồn quá trời luôn !) . Dễ sợ, với người Huế không đơn thuần ở nghĩa thấy mà ghê ! hoặc khủng khiếp quá !, mà còn có nghĩa, thí dụ: Con nớ đẹp dễ sợ !: Con bé đó đẹp quá trời !

Răng mà cú tráu rứa tê ?: Sao mà cộc cằn quá vậy ? Chữ cú tráu nếu phát âm đúng với giọng Huế thì nghe nặng hơn chữ cộc cằn nhiều, có lẽ phải gom thêm mấy chữ như thô lỗ, vũ phu thì mới lột tả được hết nghĩa .

Huế nói trại :

Nói trại là nói sai giọng, không đúng âm theo giọng viết, nói trại đôi khi cũng dùng trong trường hợp “nói khác đi, nói cách khác” . Cách nói bị biến âm này rất phổ thông ở Huế, nhất là dân cư vùng biển . Nói trại làm cho âm thanh nặng hơn, khó hiểu hơn .

Con tâu tắng ăn ngoài bụi te tức là con trâu trắng ăn ngoài bụi tre . Tời tong tẻo, nước tong veo: Trời trong trẻo, nước trong veo .
Hầu hết những từ bắt đầu bằng “nh” đều được người Huế nói trại thành “gi”: già (nhà) . Giớ già giớ vợ ở già: Nhớ nhà nhớ (luôn) vợ ở nhà!
Những từ bắt đầu bằng “s” thì nói trại ra thành “th”:
Ăn thung mặc thướng:Ăn sung mặc sướng hoặcThầy gòn là Sài gòn, hoặc nữa: Noái năng thòng phẳng: nói cho sòng phẳng, rõ ràng . Lối phát âm của người Huế không xác định được âm cuối là “n” hay “ng”:
Con thằng lằng chép miệng thở thang !: Con thằn lằn chép miệng thở than!
Những chữ có âm “o” thường nói trại ra “oa”: Xa voài voại, noái khôn tới, với khôn được, ngó khôn chộ: Xa vòi vọi, nói không tới, với không được, nhìn không thấy!
Hoặc nữa: Đi coai boái, thầy boái noái đi coai cái voài voai
Đi coi bói, thầy bói nói đi coi cái vòi voi !

Những chữ có âm “ô”, người Huế thường nói trại thành âm “u”:
Thúi trong thúi ra: Thối từ trong ra ngoài. Túi lửa tắt đèn: Tối lửa tắt đèn.
Nậy rồi mà mũi rãi thò lò !: Lớn đầu mà mũi rãi lòng thòng ! Chữ thò lò cũng đã góp mặt trong ca dao Huế:
Học trò thò lò mũi xanh
Cầm cái bánh đúc chạy quanh nhà thầy !

Vô rú mà đốn săng: Vào rừng mà đẵn gỗ . Săng cũng đã góp mặt trong mấy câu hò giã gạo với lối đối đáp rất “văn hóa” của Huế:
Bên nữ:
Lẻ củi săng chẻ ra văng vỏ
Bỏ vô lửa đỏ than lại thành than
Trai nam nhân chàng mà đối đặng
Thiếp xin kết nghĩa tào khang trọn đời

Nghĩa: Cây củi gỗ chẻ ra văng (Văn) vỏ (Võ), thảy vô lửa thì thành (Thành) than (Thang) . Cái kẹt là ý lại thâm hậu, cao xa hơn nhiều: Các danh từ :Văn, Võ Thành, Thang là những vị vua thời Tam Đại, Tây Châu bên Tàu .

Bên Nam:
Trâu ăn giữa vạc ló lỗ
Đã ngụy chưa tề !
Nam nhân chàng đã đối đặng
Thiếp đã chịu theo chàng hay chưa ?

Nghĩa: Con trâu (Trâu) ăn giữa vạt lúa trổ (Lỗ), sao kỳ quá vậy ? Ý ư, cũng điển tích như ai: Trâu, Lỗ, Ngụy Tề là bốn nước thời Xuân thu Chiến Quốc cũng ở bên Tàu luôn . Còn hai người có “tào khang” với nhau được hay không là chuyện . . .
của họ

En trên rầm thượng bổ xuống, nằm ngay đơ cán cuốc, phải địu đi nhà thương !: Anh ấy té trên rầm thượng té xuống, nằm cứng như cán cuốc, phải bồng, cõng đi nhà thương ! ( Bệnh viện ).
Rầm thượng là gác lửng, hay kho chứa bên dưới mái nhà ? Ở Huế, rầm thượng không phải là chỗ ngủ nghỉ mà là nơi chứa những đồ gia dụng đáng giá nhưng phải cỡ nhỏ, vì không có lối lên . Muốn lên rầm thượng, phải bắc thang; thân phụ tôi đã dùng rầm thượng để cất giữ những đồ cổ vừa phải, không qúy lắm .Còn nếu qúy nữa thì bỏ vào rương xe, một thứ tủ thấp đóng bằng gỗ thật dày, có nắp đậy, có luôn 4 bánh xe để đẩy vì khiêng không nổi, nặng quá mà ! Mặt bằng của rương xe là cái đi-văng, tối tối cứ trải chiếu nằm ngủ trên đó là khỏi lo trộm đạo

Nước mắt chặm hoài không khô, răng khổ ri nì trời !: Nước mắt lau, thấm hoài không khô, sao khổ vậy nè trời ! Chữ chặm cũng đã lãng đãng trong mấy câu hò giã gạo, mà vì não nùng ai oán quá, nghe hò xong e phải . . bỏ chày luôn:
Hai hàng nước mắt như mưa
Cái khăn lau không ráo
Cái áo chặm không khô
Công anh đổ xuống ao hồ
Quì thưa bẩm dạ thuở mô đến chừ !

Mặt mày chạu bạu, ai chịu cho thấu !: Mặt mày một . . đống, ai chịu cho nổi ! Chữ thấu cũng có nghĩa là tới: Kêu trời không thấu: Kêu không tới trời; Vô thấu trong Thầy gòn: Vô tuốt trong Sài gòn . Mả cha cái thằng vô hậu: Tiên sư cái thằng đoảng

Ăn trầu cơi thiếc: Ăn trầu (để) trong hộp, quả bằng thiếc . Cái cơi thiếc cũng đã đi vào tục ngữ Huế: Uống nước chè tàu, ăn trầu cơi thiếc.

“Mả cha mi” là tiếng chửi, lời nhiếc mắng rất thông dụng ở Huế, đồng nghĩa với “mồ cha mày” . Lối chửi này ít thông dụng ở những địa phương khác .

Đi xe hay đi chưn xuống rứa ?: Đi xe hay đi bộ xuống đây vậy ?

Túi thùi thui, có chộ chi mô !: Tối quá, không thấy gì hết!

Rạt gáo rồi mà còn làm le làm gió !:Cạn túi rồi mà còn làm chảnh, làm sang !

Ăn đoại cơm hến, uống đoại nước chè: Ăn tô cơm hến, uống bát nước chè (xanh) .
Tục ngữ Huế: Ăn lưng đoại, làm đoại lưng (làm muốn gãy lưng !) .
Cơm hến, chẳng có chi cầu kỳ, nhưng nhiều mùi vị với lưng bát cơm nguội, rau sống, thân chuối non, rau mùi xắt nhuyễn, nước luộc hến chan vô, cho chút xíu ruốc, bỏ chút ít hến xào, thêm vài trái ớt, đúng với cái ít ỏi của Huế .
Error! Filename not specified.Bữa ni đi kéo ghế: Hôm nay đi ăn nhà hàng . Người Huế, nhất là ở thôn quê, thường dọn cơm trên phản, trên tấm ngựa . Không dọn trên bàn nên khỏi có cái vụ kéo cái ghế mà ngồi vào bàn . Vì thế, mỗi khi được dịp đi ăn ở quán, ở nhà hàng thì gọi là đi kéo ghế .
Huế làm đày làm láo, Huế nói chữ
Vâng, người Huế, nhất là mấy o, mấy mệ thì ưa ăn nói văn hoa chữ nghĩa, ưa đa sự đa lự, ưa . . . làm đày làm láo, tức ưa xảnh xẹ, ưa nói lý nói sự, nói dông nói dài . Thêm vào đó, phải nói cho hay, khi trầm khi bổng, lúc nhặt lúc khoan thì “tụng” mới phê !
Cái phong cách noái lặp đi lặp lại của người Huế vừa như là một cách nhấn mạnh, vừa có vẻ dạy đời lại vừa mang nhiều ý nghĩa khác, xa xôi hơn, thâm thúy hơn nữa.
Để mô tả cái sự lanh chanh lắm, xí xọn quá, lu bu lắm . Người Huế ít khi dùng chữ lắm hay chữ quá mà dùng điệp ngữ:Cái con nớ, lanh cha lanh chanh ! Mấy mụ o giọn (nhọn) mồm tức mấy bà chị chồng mỏng mép của Huế vẫn đôi khi chê em dâu: Răng mà hắn vô phép vô tắc rứa hè !: Sao mà nó vô phép quá vậy!
Về màu sắc, người Huế thường có lối nói điệp ngữ để nhấn mạnh:
xanh lè lè, đỏ lòm lòm, đen thùi thui, vàng khè khè, tím giắt giắt (tím ngắt) .

Bởi, cà rịch cà tang rứa mà đoài làm giôn !: Vậy đó, tà tà, lè phè vậy mà đòi làm rể !
Còn nữa, để than trách ông trời sao mưa lâu quá, mấy o ngồi chỏ hỏ trong nhà dòm ra, chép miệng than dài than ngắn: Mưa chi mưa mưa thúi đất thúi đai !.

Một bà mẹ tụng cô con gái, một bà chị cả mô-ran cô em thứ mà nghe cứ như là đang đọc một bài đồng giao với vần điệu, trầm bổng cũng là một trong những sinh hoạt dưới mái gia đình:Mi phải suy đi nghĩ lại cho kỹ ! Mi coi, là con gái con lứa, đừng có đụng chăng hay chớ, cũng đừng lật đa lật đật, cũng đừng có mặt sa mày sỉa . Bọ mạ thì quần ống cao ống thấp, tất ba tất bật để nuôi mình . Tau thấy mi rứa, tau cũng rầu thúi ruột thúi gan !

Cái thông điệp cho thằng em trai thì: Năm tể năm năm tê, mi còn lẩm đa lẩm đẩm, mũi rãi thò lò, chừ mi nậy rồi, phải biết ăn biết noái, biết goái biết mở, vô khuôn vô phép . Chớ mai tê mốt nọ mi nên vai nên vế, nên vợ nên chồng, làm răng mi bông lông ba la hoài như cái đồ trôi sông lạc chợ cho
được ?!
Mấy ôn, khi giáo huấn con cháu, vẫn thường trích dẫn ca dao, tục ngữ để đệm thêm cho ý tưởng của mình: Đó, mi thấy đó . Ai ơi chớ phụ đèn chai, thắp trong Cần Chánh rạng ngoài Ngọ Môn . Mi đoảng, mi vô hậu, được bèo quên rá, được cá quên nơm; thì mi lấy ai mà bầu bạn, lấy mô mà tri kỷ !
========================================================================================
Xa Huế đã lâu lắm rồi, từ ngày vừa biết tập tành đi nghễ mấy o Đồng Khánh, vừa ngấp nga ngấp nghé muốn vào (nhưng sợ bị chưởi) nhấm nháp thử ly cà phê đen sánh của cà phê Phấn, nơi mà các anh hùng trong thiên hạ vẫn tấp nập ra vào; và cũng vừa biết để dành tiền để mua những tiểu thuyết của Tự Lực Văn Đoàn tại nhà sách Ưng Hạ . Phong cách Huế không ít thì nhiều cũng đã phôi pha, thổ ngữ Huế cũng không mấy khi có dịp để dùng lại cho đỡ giớ, cho khỏi quên; thành ra cũng xao lãng đi nhiều . Trong cái xao lãng bỗng có ý nghĩ muốn tìm lại, noái lại tiếng noái của thời cũ rích cũ rang nhưng đằm thắm đó . Cho nên chỉ xin được ghi lại đây những gì còn nhớ mài mại, để gọi là khơi lại chút âm thanh của những ngày xưa cũ .





TIẾNG HUẾ


Về Đầu Trang
Xem lý lịch thành viên Gửi tin nhắn
Trình bày bài viết theo thời gian:   
Gửi bài mới   Trả lời chủ đề này    Trường Trung Học Sao Mai Đà Nẵng » Văn Hoá - Khoa Học & Kỹ Thuật Thời gian được tính theo giờ EST (U.S./Canada)
Trang 1 trong tổng số 1 trang

 
Chuyển đến 
Bạn không có quyền gửi bài viết
Bạn không có quyền trả lời bài viết
Bạn không có quyền sửa chữa bài viết của bạn
Bạn không có quyền xóa bài viết của bạn
Bạn không có quyền tham gia bầu chọn


Powered by SaoMaiDaNang © Nho'm SaoMai DaNang
Designed for SaoMaiDanang - Nam cuoi cung cua truong SAO MAI